Hà Nội
Thành phố trực thuộc trung ương
Hanoi Logo.svg
Hanoi Montage.jpg
Từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ:
Cầu Long Biên - Bến Đục (Chùa Hương) - Hồ Hoàn Kiếm - Khuê Văn Các trong khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám - Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà hát Lớn Hà Nội
Biệt danh Thời Pháp thuộc:
Paris Phương Đông1
Hiện nay:
Thủ đô ngàn năm văn hiến,
Thành phố vì Hòa bình
Địa lý
Tọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″Đ / 21,028333°B 105,853333°ĐTọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″Đ / 21,028333°B 105,853333°Đ
Diện tích 3.358,9 km²
Dân số (2016)  
 Tổng cộng 7.242.200 (2017) 2
 Thành thị 3.928.600 người3
 Nông thôn 3.399.800 người4
 Mật độ 2.182 người/km²
Dân tộc Người Kinh (99,1%)
Múi giờ UTC+7
Hành chính
Quốc gia Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam
Vùng Đồng bằng sông Hồng
Quận trung tâm Quận Hoàn Kiếm
Quận Ba Đình
Quận Đống Đa
Quận Hai Bà Trưng
Thành lập 1010 – Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long
Tên khác Tống Bình, Đại La, Long Đỗ,
Đông Đô, Đông Quan,
Đông Kinh, Thăng Long
 Chủ tịch UBND Nguyễn Đức Chung
 Hội đồng nhân dân 105 đại biểu
 Chủ tịch HĐND Nguyễn Thị Bích Ngọc
 Chủ tịch UBMTTQ Vũ Hồng Khanh
 Bí thư Thành ủy Hoàng Trung Hải
 Trụ sở UBND phố Đinh Tiên Hoàng,
phường Lý Thái Tổ,
quận Hoàn Kiếm
Đại biểu quốc hội 30
Phân chia hành chính
Mã hành chính VN-64
Mã bưu chính 10
Mã điện thoại 24
Biển số xe 29, 30, 31, 32, 33, (40)
Website hanoi.gov.vn

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt trước đây. Do đó, lịch sử Hà Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ.5 Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 7.242.200 người (năm 2017), sau Thành phố Hồ Chí Minh.2 Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm 2017 là hơn 10 triệu người. Hiện nay, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của Việt Nam.

Hà Nội nằm giữa6 đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành 1 trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh thành Thăng Long là trung tâm văn hóa, giáo dục và buôn bán của cả nước. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng.

Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại, được mệnh danh là "Tiểu Paris Phương Đông" thời bấy giờ. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hà Nội là thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau khi thống nhất tiếp tục là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam.

Tên gọi

“Hà Nội” bắt đầu được dùng làm địa danh ở Việt Nam từ năm Minh Mạng thứ 12 (Tây lịch năm 1831) khi có một tỉnh có tên là tỉnh Hà Nội được thành lập ở Bắc Thành. “Hà Nội” chữ Hán là “河內”, nghĩa mặt chữ là bên trong sông, tên gọi này phản ánh vị trí địa lý của tỉnh Hà Nội. Tỉnh này nằm giữa hai con sông là sông Nhị ở phía đông bắc và sông Thanh Quyết ở phía tây nam.7 8

Tỉnh Hà Nội gồm có bốn phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Lý Nhân. Toà thành nơi có đặt trị sở của tỉnh Hà Nội, tức tỉnh lị của tỉnh Hà Nội, được gọi là thành Hà Nội theo tên tỉnh. Thành Hà Nội nằm trên địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Cả hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đều cùng thuộc phủ Hoài Đức.9

Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ký chỉ dụ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp để Pháp thành lập thành phố Hà Nội.10 11

Năm 1890, phủ Lý Nhân bị tách khỏi tỉnh Hà Nội, đổi thành tỉnh Hà Nam.11

Năm 1896, tỉnh lị của tỉnh Hà Nội được dời ra làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai. Để tránh trùng tên với thành phố Hà Nội, năm 1902, tỉnh Hà Nội được đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ theo tên của tỉnh lị. Ngày 6 tháng 12 năm 1904, quan toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Cầu Đơ và tỉnh lị của tỉnh này thành “Hà Đông”. Tên gọi “Hà Đông” là do quan đốc học tỉnh Cầu Đơ Vũ Phạm Hàm đề xuất, lấy từ một câu nói của Lương Huệ vương được ghi trong sách Mạnh Tử là “河內凶,則移其民於河東,移其粟於河內” (âm Hán Việt: Hà Nội hung, tắc di kỳ dân ư Hà Đông, di kỳ túc ư Hà Nội), có nghĩa là Hà Nội bị mất mùa thì chuyển dân ở Hà Nội sang Hà Đông, chuyển lương thực ở Hà Đông sang Hà Nội. “Hà Nội” trong câu nói trên của Lương Huệ vương là chỉ vùng phía bắc sông Hoàng Hà, còn “Hà Đông” là chỉ vùng phía đông sông Hoàng Hà, thuộc tây nam bộ tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay.11

Địa lý

Vị trí, địa hình

nhỏ|496x496px|Bản đồ hành chính Thành phố Hà Nội năm 2013

Ảnh chụp vệ tinh khu vực Hà Nội

Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' độ kinh Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sông Hồng.12 13 Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km2, nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.13

Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1.281 m), Gia Dê (707 m), Chân Chim (462 m), Thanh Lanh (427 m), Thiên Trù (378 m)... Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.13

Thủ đô Hà Nội có bốn điểm cực là:

Thủy văn

Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yênrồi xuôi về Nam Định, thành phố có nhiều gắn kết với Thăng Long từ thời nhà Trần. Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ,... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,... là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.13

Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự (xem ảnh). Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn.13

Sông Hồng, nhìn từ cầu Long Biên

Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS-TS Trần Đức Hạ - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước Việt Nam, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m3/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông.14 Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.15

Khí hậu

Khí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa, được nêu trên trang web chính thức của Hà Nội.16 Tuy nhiên, dựa theo Phân loại khí hậu Köppen, trang web ClimaTemps.com lại xếp Hà Nội mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Humid Subtropical) với mã Cwa.17

Thời tiết có sự khác biệt rõ ràng giữa mùa nóng và mùa lạnh và có thể phân ra thành 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nóng bắt đầu từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 9, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa đầu tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Từ cuối tháng 11 đến tháng 1 rét và hanh khô, từ tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh và mưa phùn kéo dài từng đợt. Trong khoảng cuối tháng 9 đến tháng 11, Hà Nội có những ngày thu với tiết trời mát mẻ (rõ rệt hơn Hải Phòng, Nam Định và nhiều tỉnh phía Bắc khác) do đón vài đợt không khí lạnh yếu tràn về. Tuy nhiên, do chịu sự tác động mạnh mẽ của gió mùa nên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi mùa thường không đồng đều nhau giữa các năm, nên sự phân chia các tháng chỉ mang tính tương đối.

Nhiệt độ trung bình mùa đông: 16,5 °C (lúc thấp xuống tới 2,7 °C). Trung bình mùa hạ: 29,5 °C (lúc cao nhất lên tới 43,7 °C). Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,2 °C, lượng mưa trung bình hàng năm vào mức 1.800mm. Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C do chịu ảnh hưởng của La Nina.12 Vào tháng 6 năm 2015 với việc bị ảnh hưởng bởi El Niño trên toàn thế giới, Hà Nội phải hứng chịu đợt nóng kỉ lục trong 1 tuần (từ 1-6 đến 7-6) với nhiệt độ lên tới 43,7 °C, là nhiệt độ kỷ lục ghi nhận trong lịch sử. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị và là vùng khí hậu có độ ẩm cao nên những đợt nắng nóng, nhiệt độ cảm nhận thực tế luôn cao hơn mức đo đạc, có thể lên tới 50 °C.

Dữ liệu khí hậu của Hanoi (1898–1990)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 32.0 34.7 37.2 39.0 42.8 42.5 40.1 38.2 39.0 35.5 34.7 31.5 42,8
Trung bình cao °C (°F) 19.1 19.5 22.6 27.0 31.3 32.5 32.7 31.7 30.7 28.4 24.8 21.5 26,8
Trung bình ngày, °C (°F) 16.4 17.0 20.2 23.7 27.3 28.8 28.9 28.2 27.2 24.6 21.4 18.2 23,5
Trung bình thấp, °C (°F) 13.5 14.7 17.8 21.1 24.1 25.6 26.0 25.5 24.5 21.6 18.3 15.1 20,6
Thấp kỉ lục, °C (°F) 2.7 6.0 6.0 11.8 17.2 20.0 21.0 20.0 16.9 13.0 10.0 5.0 2,7
Lượng mưa, mm (inch) 18.6
(0.732)
26.2
(1.031)
43.8
(1.724)
90.1
(3.547)
188.5
(7.421)
239.9
(9.445)
288.2
(11.346)
318.0
(12.52)
265.4
(10.449)
130.7
(5.146)
43.4
(1.709)
23.4
(0.921)
1.676,2
(65,992)
% độ ẩm 78 82 83 83 77 78 79 82 79 75 74 75 78,8
Số ngày mưa TB 8.4 11.3 15.0 13.3 14.2 14.7 15.7 16.7 13.7 9.0 6.5 6.0 144,5
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 68.2 45.2 43.4 81.0 164.3 156.0 182.9 164.3 162.0 164.3 126.0 108.5 1.466,1
Nguồn #1: Tổ chức Khí tượng Thế giới,18 BBC Weather (độ ẩm)19
Nguồn #2: Pogoda.ru.net (cực độ),20 (Kỷ lục nhiệt độ cao nhất tháng 5 nắm 1926, thấp nhất tháng 1 năm 1955),21 (nắng)22

Dân cư

Nguồn gốc dân cư sinh sống

Vào thập niên 1940, khi Hà Nội là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người.23 Nhưng đến năm 1954, dân số Hà Nội giảm xuống chỉ còn 53 nghìn dân trên một diện tích 152 km². Lịch sử Hà Nội cũng đã ghi nhận dân cư của thành phố có nhiều thay đổi, xáo trộn liên tục qua thời gian. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác (Trung Tự - Hà Nội). Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.24

Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ 15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long.Điều này khá giống với Nam Định và sau này là Hải Phòng. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có hẳn một phường người Hoa, là phường Đường Nhân. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.24

Dân số

Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa thế kỷ gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, thành phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố được mở rộng, diện tích lên tới 584 km², dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người.25 Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, với việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.672.122 người vào năm 1999.26 27 28 Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có 6,233 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.29 Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số toàn Hà Nội là 6.451.909 người,30 dân số trung bình năm 2010 là 6.561.900 người.31 . Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, dân số Hà Nội là 7.558.956 người.

Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng Hòa mật độ dưới 1.000 người/km². Về cơ cấu dân số, theo số liệu 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày chiếm 0,9%.13 Năm 2009, người Kinh chiếm 98,73% dân số, người Mường 0,76% và người Tày chiếm 0,23 %.30

Lịch sử

Thời kỳ tiền Thăng Long

Cửa Bắc thành Hà Nội.

Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.32 Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ 3 trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.32

Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình.33 Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt

quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý BíLý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.34 Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.32

Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh

Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức.

Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long. Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng, chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076... Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.35

Nền điện Kính Thiên trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long.

Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt,coi Thăng Long là kinh đô thứ nhất và Thiên Trường là kinh đô thứ hai, nơi các Thượng hoàng ở. Kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu Văn An... Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt.36 Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428.37

Phố hàng Mắm, khoảng năm 1902.

Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành Đông Kinh, đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê.38 Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Câu ca Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là Kẻ Chợ. Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.39

Người Hà Nội, 1884

Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân, Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành, tức Bắc Bộ ngày nay.40

Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc

Biểu trưng Hà Nội giai đoạn Liên bang Đông Dương và Quốc gia Việt Nam.

Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội.41 Với hàm nghĩa nằm trong sông (Hán tự 河內), tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy.42 43 Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam. Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm. Phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên. Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (Nay là Chương Mỹ - Thanh Oai). Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên gọi bắt đầu từ đây.

Rue Paul Bert (nay là Phố Tràng Tiền) và Nhà hát Lớn thời Liên bang Đông Dương.

Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ 19 cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân...41

Đấu xảo tại Hà Nội năm 1902.

Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri PhươngHoàng Diệu. Năm 1884, nhà Nguyễn ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.44

Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xươnghuyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực Phố Huế, Đại Cồ Việt, Khâm Thiên, Giảng Võ, Đường Thụy Khuê, Hồ Tây đến cầu Long Biên. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam.

Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương.25 Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn dần bị triệt hạ, đến năm 1897 hầu như bị phá hủy hoàn toàn,45 chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, Cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới.44 Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.25

Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.

Trong hai cuộc chiến tranh

Tượng " Quyết tử đê Tổ quốc quyết sinh". Tưởng nhớ những ngày đêm chiến đấu bảo vệ Hà Nội mùa đông năm 1946.

Giữa thế kỷ 20, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ (Avenue) Paul Doumer đổi tên là Nhân quyền, đường (Rue de la) République đổi tên là Dân Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do,...nh

Hà Nội, Tết dương lịch 1974

Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp những người Việt Minh lấy lại miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sát nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên.46 47 Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.25

Khi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc,48 49 số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người.50 Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.

Hà Nội đương đại

Biểu trưng Hà Nội hiện nay

Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" vào ngày 17 tháng 6 năm 1999.51 Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu "Thủ đô anh hùng" vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á.52

Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người.53 Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới.54 Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phú.55 Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².

Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Chính phủ ra Nghị định 69/CP thành lập quận Tây Hồ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường: Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm.56 Ngày 26 tháng 11 năm 1996, Chính phủ ra Nghị định 74/CP thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt, 78,1ha diện tích và 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4ha diện tích và 5.506 nhân khẩu của phường Khương Thượng thuộc quận Đống Đa, toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì; cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Cầu Giấy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.57

Ngày 6 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ra Nghị định 132/2003/NĐ-CP thành lập quận Long Biên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm, cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Hoàng Mai trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở và 55ha diện tích của xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng.58

Hà Nội nhìn từ Đại lộ Thăng Long

Sau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội ô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người.59 Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người).

Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu.60 Ngoài ra, hiện Hà Nội là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, hàm lượng bụi ở đây cao gấp nhiều lần mức cho phép61

Keangnam Hanoi Landmark Tower cao 336m, là tòa nhà cao nhất Việt Nam.

Ngày 29 tháng 5 năm 2008, với gần 93% đại biểu tán thành, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới.29 Ngày 8 tháng 5 năm 2009, địa giới các huyện Thạch Thất và Quốc Oai được điều chỉnh lại. Cũng trong nghị quyết này, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây như cũ. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình... đã được khánh thành. Năm 2010 Hà Nội cũng đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Hà Nội đã tổ chức thành công đại hội Đảng bộ lần thứ 15 với mục tiêu tới năm 2015 phát triển thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 4.300 Đô la Mỹ vào năm 2015. Tính tới ngày 30 tháng 10 năm 2010, dân số toàn thành phố là 6,913 triệu người (tổng kiểm tra hộ khẩu trên địa bàn).62

Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ra Nghị quyết 132/NQ-CP chia huyện Từ Liêm thành 2 quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.63

Kiến trúc và quy hoạch đô thị

Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín dây... nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050.64 Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch.

Một góc Hà Nội sau cơn mưa, mùa hè 2015

Khu phố cổ

Phố Thuốc Bắc trong khu phố cổ

Khu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng...

Tất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ.65 Những năm gần đây, mật độ dân số cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một nhà vệ sinh chung.66 Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.67

Khu thành cổ

Đoan Môn, Hoàng thành Thăng Long
Chùa Một Cột

Khu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Ðình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Ðiện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài.68 Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ 11. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa.

Ngày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.69 Sáng 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.70

Khu phố Pháp

Nhà thờ Lớn, Hà Nội

Năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa.67 Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp.

Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893.71 Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.72

Kiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sát nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sắc tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.

Kiến trúc hiện đại

Vào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Khương Thượng, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, với những dãy nhà 4 tầng đầu tiên ở khu Khương Thượng và sau đó là 5 tầng. Riêng khu Kim Liên xây dựng nhà hộp kiểu Trung Quốc. những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng.67 Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể này đang dần được thay thể bởi các chung cư mới.

Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... cũng dần xuất hiện.73 Khoảng thời gian gần đây,[khi nào?] khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng.67 Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.

Cùng với dự phát triển, đô thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 4374 và năm 2012 là 34 đường, phố mới.75 Khoảng thời gian 2010 - 2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều.76 Tính đến giữa năm 2017, cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội thống kê được 994 tòa nhà cao tầng.77

Các công trình nổi bật

Chùa Trấn Quốc, Hà Nội

Trước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ 5 với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng.78 Theo văn bia, từ giữa thế kỷ 6, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay.79 Đến thế kỷ 11, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ 12, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ 17. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ 19.80 Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.

Phủ Chủ tịch.

Vùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.81

Cùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn.. Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Kitô giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long... Ngoài ra có thánh đường Hồi Giáo Jamia Al Noor (thánh đường Ánh Sáng) tại 12 Hàng Lược,82 Thánh thất Cao Đài thủ đô. Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông đúc, thiếu không gian.

Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh
Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam

Thời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole... Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.

Hai thập niên gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà Nội... mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Lotte Center Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội.

Chính trị và hành chính

Bản đồ Hành chính Hà Nội năm 2013

Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh còn được xếp vào đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh...83

Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở thành phố. Hội đồng nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2016-2021, gồm 105 đại biểu84 . Chủ tịch HĐND Hà Nội hiện nay là bà Nguyễn Thị Bích Ngọc.

Ủy ban nhân dân thành phố là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Chủ tịch UBND Hà Nội đương nhiệm là ông Nguyễn Đức Chung. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm báo Hà Nội mới, báo Kinh tế và Đô thị, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm.85

Về phía Đảng ủy, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (hay thường gọi tắt là Thành ủy Hà Nội) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố Hà Nội giữa hai kỳ đại hội đại biểu của Đảng bộ Thành phố. Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội khóa XVI nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm có 74 người, bầu ra Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội 2015 - 2020 gồm 16 ủy viên86 . Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy và phải là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Bí thư Thành ủy hiện tại là ông Hoàng Trung Hải, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Thành phố nhiệm kỳ XVI (2014 - 2019) được Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVI (2014-2019) bầu ngày 26/06/2014 gồm 145 ủy viên, bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 12 thành viên87 88 . Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội đương nhiệm là ông Vũ Hồng Khanh (được bầu ngày 14/03/2016 thay thế ông Đào Văn Bình xin thôi chức vụ do hết tuổi công tác)89 .

Hành chính

Sau những thay đổi về địa giới và hành chính năm 2008, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, Hà Nội hiện có 30 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã – và 584 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 386 xã, 177 phường và 21 thị trấn. 48,61% dân số sống ở đô thị và 51,39% dân số sống ở nông thôn.

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hà Nội
Tên Dân số (người)2013 Hành chính
Quận (12)
Ba Đình 225.910 14 phường
Bắc Từ Liêm 232.894 13 phường
Cầu Giấy 260.643 8 phường
Đống Đa 410.117 21 phường
Hà Đông 260.136 17 phường
Hai Bà Trưng 370.726 20 phường
Hoàn Kiếm 147.334 18 phường
Hoàng Mai 380.509 14 phường
Long Biên 271.913 14 phường
Nam Từ Liêm 232.894 10 phường
Tây Hồ 130.639 8 phường
Thanh Xuân 223.694 11 phường
Thị xã (1)
Sơn Tây 125.749 9 phường, 6 xã
Huyện (17)
Tên Dân số (người)2013 Hành chính
Ba Vì 246.120 1 thị trấn, 30 xã
Chương Mỹ 267.359 2 thị trấn, 30 xã
Đan Phượng 142.480 1 thị trấn, 15 xã
Đông Anh 333.337 1 thị trấn, 23 xã
Gia Lâm 251.735 2 thị trấn, 20 xã
Hoài Đức 191.106 1 thị trấn, 19 xã
Mê Linh 191.490 2 thị trấn, 16 xã
Mỹ Đức 169.999 1 thị trấn, 21 xã
Phú Xuyên 181.388 2 thị trấn, 26 xã
Phúc Thọ 159.484 1 thị trấn, 22 xã
Quốc Oai 160.190 1 thị trấn, 20 xã
Sóc Sơn 282.536 1 thị trấn, 25 xã
Thạch Thất 177.545 1 thị trấn, 22 xã
Thanh Oai 167.250 1 thị trấn, 20 xã
Thanh Trì 198.706 1 thị trấn, 15 xã
Thường Tín 219.248 1 thị trấn, 28 xã
Ứng Hòa 182.008 1 thị trấn, 28 xã
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Kinh tế

Chợ Đồng Xuân, một trung tâm buôn bán truyền thống của thành phố
Trụ sở ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội

Năm 2014, kinh tế của thủ đô tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá, ước cả năm 2014 tăng 8,8%. Đáng chú ý, tất cả các ngành, lĩnh vực chủ yếu đều lấy lại đà tăng trưởng: giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng tăng 8,4%, trong đó, riêng xây dựng tăng 9,9%, là mức tăng cao nhất trong 3 năm gần đây; thị trường bất động sản đã có sự chuyển biến, lượng hàng tồn kho giảm. Giá trị gia tăng ngành nông nghiệp ước tăng 2%; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trên diện tích đất nông nghiệp ước đạt 231 triệu đồng/ha (cao hơn năm trước 4 triệu đồng); đã hoàn thành kế hoạch dồn điền đổi thửa và lũy kế hết 2014 có 100 xã đạt nông thôn mới (bằng 20% số xã nông thôn mới của cả nước). Hà Nội còn là thủ đô có nhiều trâu bò nhất cả nước, là địa phương có đàn gia súc, gia cầm gồm gần 200.000 con trâu, bò; 1,53 triệu con lợn và khoảng 18,2 triệu con gia cầm, sản lượng thịt hơi hằng năm đạt 225.566 tấn, với diện tích mặt nước 30 nghìn hécta, đã đưa vào sử dụng 20 nghìn hécta nuôi trồng thủy sản, tập trung ở các huyện Ba Vì, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Thanh Trì90 .90

Khu trung tâm thương mại Vincom

Đặc biệt, với các giải pháp thu ngân sách nhà nước được thực hiện đồng bộ, kết quả năm 2014 của Thủ đô ước đạt 130,1 nghìn tỷ đồng, bằng 103,1% dự toán; chi ngân sách địa phương ước đạt 52,5 nghìn tỷ đồng (bao gồm 3 nghìn tỷ đồng phát hành trái phiếu xây dựng Thủ đô). Quản lý thị trường, giá cả được tăng cường, lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 5,34%. 

Tốc độ tăng tổng sản phẩm (GDP) trên địa bàn: 9,0 - 9,5%; trong đó, dịch vụ 9,8 - 10,5%, công nghiệp - xây dựng tăng 8,7- 9,0%, nông nghiệp tăng 2,0 - 2,5%; GRDP bình quân đầu người: 75 - 77 triệu đồng (~3.500 USD/người/năm); Tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn: 11 - 12%; Giảm tỷ suất sinh thô so với năm trước: 0,7‰; Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên so với năm trước: 0,3%; Số xã/phường/thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế tăng thêm: 8 đơn vị; Giảm tỷ lệ hộ nghèo so với năm trước: 0,2%; Tỷ lệ hộ dân cư được công nhận danh hiệu "Gia đình văn hóa": 85%; Số trường công lập đạt chuẩn quốc gia tăng thêm: 100; Số xã được công nhận cơ bản đạt tiêu chí nông thôn mới tăng thêm: 55 xã (lũy kế đến hết năm 2015 có 155 xã);Tỷ lệ rác thải thu gom và vận chuyển trong ngày: Khu vực đô thị: 98%; Khu vực nông thôn: 87%.  

Du lịch

Khách sạn 5 sao Sofitel Metropole nằm trên phố Ngô Quyền, trung tâm thành phố

So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống... Du lịch Hà Nội đang ngày càng trở nên hấp dẫn hơn với các du khách. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc.91 Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài.92 Tỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Một trong các bảo tàng thu hút nhiều khách tham quan nhất là Bảo tàng dân tộc học. Hàng năm, bảo tàng Dân tộc học, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước ngoài.93

Theo thống kê năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 11 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, Crown Plaza, Marriot, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.94

Du lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một số khách sạn giả danh và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn.95

Giao thông

Ga Hà Nội

Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Thanh Xuân được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự.96 Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Thạch Thất, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Chương Mỹ. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam và rẽ quốc lộ 21 đi Nam Định, quốc lộ 2 đến Hà Giang, quốc lộ 3 đến Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, quốc lộ 17 đi Quảng Ninh, quốc lộ 6 và quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc.

Nhà ga T2, cảng hàng không quốc tế Nội Bài
Giao thông Hà Nội
Cầu Nhật Tân

Ngoài ra, Hà Nội còn có các nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như đại lộ Thăng Long, Pháp Vân-Cầu Giẽ, ngoài ra các tuyến cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội-Hải Phòng, Hà Nội-Lào Cai, Hà Nội-Thái Nguyên Hà Nội-Hòa Bình cũng đang trong quá trình xây dựng. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại.Trong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố.97 Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện.97 98 Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về "hành vi hợp trội", phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp.99 Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm.100 Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.

Theo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại.100 Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng dự báo tới năm 2015, thành phố Hà Nội sẽ hết tình trạng ùn tắc giao thông.101 Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội hiện có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu. Trong 11 tháng đầu năm 2011, trên địa bàn Hà Nội đã xảy ra 533 vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt làm 531 người chết và 144 người bị thương.

Nhà ở

Nhà tập thể với chuồng cọp phổ biến ở Hà Nội

Mặc dù là thủ đô của một quốc gia thu nhập bình quân đầu người thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có.102 Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo số liệu năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 mét vuông một người.59 Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở.103

Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng 3, 4 thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội.[cần dẫn nguồn]

Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm [cần dẫn nguồn]. Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính.103 Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại bãi An Dương, dải đất giữa sông Hồng thuộc địa phận Yên Phụ, Từ Liên, Phúc Xá, hàng trăm gia đình sống trong những ngôi nhà lợp mái tre xây từ nhiều năm trước, không có điện, không có trường học và không được chăm sóc về y tế.104

Việc chia các đất công cũng gây bức xúc dư luận. Như năm 2006, báo chí đặt vấn đề về "Nhà nước thiệt hại 3.000 tỷ đồng do quyết định duyệt giá đất của ủy ban nhân dân TP Hà Nội" 105

Y tế

Bệnh viện Vinmec

Theo con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2011 thì năm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế.106 Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh.107 Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp.108 Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y sĩ và 3.970 y tá, so với Thành phố Hồ Chí Minh 6.073 bác sĩ, 1.875 y sĩ và 10.474 y tá.109

Do sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Nhi Thụy Điển và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải.110 111 Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.112

Cũng giống như Thành phố Hồ Chí Minh, điều kiện chăm sóc y tế giữa nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng.113

Giáo dục

Đại học Y Hà Nội, một trong những đại học đầu tiên của Việt Nam

Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 15 cho tới cuối thế kỷ 19, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định.114 Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Một thời kì trường thi Hà Nội bị nhập vào với trường Nam Định gọi là trường Hà Nam thi tại Nam Định (1884 đến 1915). Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương, Trường Bách nghệ Hà Nội là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.115

Đại học Quốc gia Hà Nội

Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh.116 117 118 Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như Trung học Chuyên Hà Nội - Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công.119 Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của toàn Việt Nam. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đạo tạo Việt Nam năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia.120

Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên.121 Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam.

Dẫu vậy thì giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều bất cập. Khuôn viên có tính truyền thống, phong cách sư phạm và có hồn văn hóa của những trường lập ra từ xưa nay bị xẻ thịt thành nhà ở, nhà hàng, nhà băng,...122 Đại học Bách khoa bị cắt bởi đường phố, và còn lập ra cả phường như phường Bách Khoa quận Hai Bà Trưng. Khuôn viên cổ kính của Viện Đại học Đông Dương thì chen vào nhà hàng 23 Lê Thánh Tông phục vụ dân nhậu. Các ký túc xá cũ lẫn mới thường được tạo điều kiện để sinh viên không ở được, như cho hộ gia đình thuê trọ, mở nhà hàng,... để sinh viên tự tìm chỗ ở yên tĩnh mà học tập, từ đó chuyển đổi sử dụng ký túc. Phái thực dụng còn lên tiếng đòi các trường phải di dời đi đâu đó quang đãng mà học, nhường lại "đất vàng" cho các hoạt động hái ra tiền trước mắt 123 124 .

Văn hóa

Thể thao

Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, từ năm 2003 là sân nhà của Đội tuyển Quốc gia Việt Nam.

Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay thành phố có hai câu lạc bộ bóng đá: Hà Nội T&T thi đấu tại V.League 1, Câu lạc bộ Hà Nội thi đấu tại giải hạng nhất. Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nội từng có nhiều đội bóng mạnh như Thể Công, Công an Hà Nội, Tổng cục Đường sắt (thành lập năm 1956), Tổng cục Bưu điện (thành lập năm 1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội,125 Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội. Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003, các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu quốc gia.126

Bệnh viện Thể thao Việt Nam- cơ quan đầu ngành về Y học Thể thao tại quận Nam Từ Liêm

Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%.127 Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp.128

xxxxnhỏ|232x232px|Sân vận động Hàng Đẫy, trước năm 2003 là sân nhà của Đội tuyển Quốc gia Việt Nam.]] Sau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958,125 nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi.129

Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam & các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I... cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác.

Ngày 8 tháng 11 năm 2012, Hà Nội được Hội đồng Thể thao châu Á trao quyền đăng cai ASIAD 18,130 131 nhưng đến ngày 17 tháng 4 năm 2014, Việt Nam đã xin rút quyền đăng cai giải do vấn đề về kinh phí tổ chức.132 133

Các địa điểm văn hóa, giải trí

Nhà hát Lớn Hà Nội

Theo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng. Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu... cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.

Bảo tàng Chiến thắng B52

Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số 11 phố Ngô Thì Nhậm quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại 72 Hàng Bạc quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại 51 Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại 164 Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh.134 Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.[125]

Công viên Thống Nhất và Rạp xiếc Trung ương.

Hà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng... Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Tổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam.135 Năm 2009, tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565 nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư.136 Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam.137

Rạp chiếu phim CGV

Trong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như hệ thống rạp CGV, Lotte Cinema, Platinum Cineplex, Galaxy, BHD hay Trung tâm chiếu phim quốc gia. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 thì vắng người xem hơn. Fansland, rạp chiếu phim một thời với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả.138 Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Hà Nội. Nhiều vũ trường từng nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của Hà Nội, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở 78 Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999.139

Nằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp dẫn của Hà Nội. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo sóng, bể massage...140 Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ. Hà Nội còn là thành phố có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Làng gốm Bát Tràng, làng Lụa Vạn Phúc, Đúc đồng Ngũ Xã... không chỉ đóng vai trò về kinh tế mà còn là những địa điểm văn hóa, du lịch.

Hàng loạt các trung tâm thương mại lớn được xây dựng như: Vinhomes Royal City, Time City, AEON Mall Long Biên, Big C Thăng Long, Metro Hoàng Mai, Metro Từ Liêm, Melinh Plaza... là nơi tập trung mua sắm của đông đảo người dân.

Làng nghề truyền thống

Sản phẩm gốm của làng nghề truyền thống Bát Tràng trên con đường Gốm sứ

Thành phố Hà Nội trước kia đã có những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc "Hà Nội 36 phố phường". Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi, nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào Hà Nội, Hà Nội còn có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo số liệu cuối năm 2008, toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc nhất Việt Nam.141

Nằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hải Dương, làng Định Công ở quận Hoàng Mai và làng Đồng Sâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ 15, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy, những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên Rue changeurs, có nghĩa phố Đổi Bạc. Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất.

Làng Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã có các sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ 14 khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn hóa cùng sản phẩm gốm, ngôi làng trở thành một địa điểm du lịch thu hút của thành phố Hà Nội.

Vẽ truyền thần- một nghề truyền thống độc đáo trong khu phố cổ Hà Nội

Một làng nghề khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà Đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã có tiếng với tên gọi lụa Hà Đông, từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng.142 Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc.

Lễ hội truyền thống

Những chiếc đò chở du khách vào lễ hội chùa Hương

Thăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương... Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang.

Từ ngày 9 dến 12 tháng 1 âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi có nghề làm nón quai thao và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức. Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò đĩ đánh bồng. Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn, nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày 12, hội kết thúc bằng lễ rã đám.143

Ông Đồ viết chữ trong dịp Tết Nguyên Đán

Một trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng (xã Phù đổng huyện Gia Lâm), xuất phát từ một câu truyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội trận, tái hiện lại cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ 10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội Gióng như hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm, hội Sóc Sơn ở huyện Sóc Sơn, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi huyện Gia Lâm.144

Trong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Đống Đa được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, tức 1789. Lễ hội Đống Đa được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện lại hình ảnh của quá khứ.145

Ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương, lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách trẩy hội thường bắt đầu từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ đền Trình. Từ đó, du khách tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình, núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà... rồi cập bến vào chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Đây là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam.146

Ẩm thực

Một số món ngon của Hà Nội

Là trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực Hà Nội cũng có những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm. Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui.147

Thanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh trì, quận Hoàng Mai, với món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì xưa kia được thêm tinh dầu từ con Cà cuống với mùi thơm đặc trưng, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn.148

Một bát phở bò chín ăn cùng với quẩy.

Một món ăn khác có tiếng của Hà Nội là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc, gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm.149

Phở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò, thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm.150 Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán.

Làng Lệ Mật nổi tiếng với những món ăn chế biến từ thịt rắn. Rượu ngâm xương rắn được phục vụ miễn phí.

Ở Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, tào phớ(óc đậu phụ) An Phú, nem chua làng Vẽ, nem Phùng, giò chả Ước Lễ.

Văn hóa ứng xử

Lễ tế trong một hội làng tại nội thành Hà Nội

Hà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và tỉnh Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.151

Thăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa.152 Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ 20 cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: "Ngay khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp. Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp".153 Những thập niên gần đây, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ.

Tuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008,154 hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh và đáng xấu hổ tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm.155 Nhà văn Băng Sơn phát biểu: "Tôi cảm thấy buồn và xấu hổ. Người Hà Nội làm xấu Hà Nội đi. Bao nhiêu năm hội hoa ở Đà Lạt, ở TP HCM mà không phải làm hàng rào vẫn giữ được cho đến ngày cuối cùng". Những vụ việc trên đã dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về "văn hóa người Tràng An" trong thời đại ngày nay.156 Có nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội 157 158 159 160 . Hà Nội còn có "bún mắng, cháo chửi" ngày càng trở nên phổ biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ, xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn 161 162 163 164 165 166 167 . Sau sự kiện "bún chửi" Hà Nội lên sóng CNN trong mục "món ăn đặc sắc" tháng 9/2016 thì giới chức Hà Nội "tuyên chiến với nói tục, chửi bậy" 168 .

Hà Nội trong văn hóa, nghệ thuật

Một người bán sen trên đường phố Hà Nội

Âm nhạc

Hà Nội là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Đã có hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội trong nhiều đề tài. Trước hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, Gò Đống Đa, Tiến về Hà Nội. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc "Người Hà Nội", ngày nay đã trở nên quen thuộc.169 Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: "Sẽ về Thủ đô" của Huy Du, "Cảm xúc tháng Mười" của Nguyễn Thành, "Ba Đình nắng" của Bùi Công Kỳ. Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như "Bài ca Hà Nội" của Vũ Thanh, "Hà Nội - Điện Biên Phủ" của Phạm Tuyên, "Khi thành phố lên đèn" của Thái Cơ, "Tiếng nói Hà Nội" của Văn An v.v... Bên cạnh đó, Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kỳ và lãng mạn, với "ánh đèn giăng mắc", "có bóng trăng thơ in trên mặt hồ", với hình ảnh người con gái "khăn san bay lả lơi trên vai ai""áo trắng Trưng Vương, Tây Sơn em tan trường về" trong những nhạc phẩm mang nhiều tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi của Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và nét thanh lịch độc đáo của Hà Nội được khắc họa đậm nét qua giai điệu của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với "Nhớ về Hà Nội", Phan Nhân với "Hà Nội niềm tin và hy vọng", Hoàng Vân với "Tình yêu Hà Nội", Văn Ký với "Trời Hà Nội xanh" và "Hà Nội mùa xuân", Nguyễn Đức Toàn với "Hà Nội trái tim hồng", Trần Hoàn với "Khúc hát người Hà Nội", Trịnh Công Sơn với "Nhớ mùa thu Hà Nội", Nguyễn Cường với "Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội", Dương Thụ với "Mong về Hà Nội", Phú Quang với "Em ơi, Hà Nội phố", "Hà Nội ngày trở về", "Im lặng đêm Hà Nội", Phạm Minh Tuấn với "Hà Nội ơi thầm hát trong tôi", Nguyễn Tiến với "Chiều mưa Hà Nội", Trần Quang Lộc với "Có phải em mùa thu Hà Nội", Trương Quý Hải với "Hà Nội mùa vắng những con mưa", Lê Vinh với "Hà Nội và tôi", Vũ Quang Trung với "Chiều Hà Nội" v.v... Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm nhạc như "Một thoáng Tây Hồ" của Phó Đức Phương, "Ngẫu hứng sông Hồng" của Trần Tiến, "Chiều Hồ Gươm" của Đặng An Nguyên, "Truyền thuyết Hồ Gươm" của Hoàng Phúc Thắng, "Bên lăng Bác Hồ" của Dân Huyền v.v... Có một số tác phẩm tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội trong tựa đề hoặc trong ca từ nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về chính mảnh đất này như: "Những ánh sao đêm" của Phan Huỳnh Điểu, "Từ một ngã tư đường phố" của Phạm Tuyên, "Mùa xuân làng lúa làng hoa" của Ngọc Khuê, "Hoa sữa" của Hồng Đăng, "Thu quyến rũ" của Đoàn Chuẩn, "Phố nghèo", "Ngẫu hứng phố" của Trần Tiến,... Một Hà Nội với ngập tràn các loài hoa đã được nhạc sĩ Giáng Son khắc họa trong "Hà Nội 12 mùa hoa" - Đây cũng là một vẻ đẹp rất riêng của thủ đô Hà Nội.170

Văn học

Hoa Đào Nhật Tân

Trong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa.171 Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ như Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du hay Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam.171 Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí" xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong Vang bóng một thời như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như Miếng ngon Hà NộiThương nhớ mười hai, thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký Hà Nội 36 phố phường. Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội.171 Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm về thành phố này như Phố của Chu Lai, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội.

Điện ảnh

Hình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến Giông tố, Sao tháng Tám, Hà Nội mùa đông năm 1946, Em bé Hà Nội, Phía bắc Thủ đô, Tiền tuyến gọi.172 Em bé Hà Nội, tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó.173 Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim khác khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như Tuổi mười bảy, Những người đã gặp, Hãy tha thứ cho em, Cách sống của tôi, Hà Nội mùa chim làm tổ.172 Nhưng kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất Mùa hè chiều thẳng đứng, một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này.

Hội họa

Trong hội họa, họa sĩ Bùi Xuân Phái là một trong những người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay thường được biết đến với tên gọi Phố Phái. Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử như Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, Em Thúy của Trần Văn Cẩn, Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi của Nguyễn Đỗ Cung

Vinh danh

Tên gọi của thành phố cũng được sử dụng cho nhiều loài sinh vật:

  • Aderus hanoiensis
  • Bellatheta hanoiensis
  • Adoretus hanoiensis174
  • Anosia hanoiensis175
  • Camptothlipsis hanoiensis176
  • Coccophagus hanoiensis177
  • Coniophora hanoiensis
  • Dasyhelea hanoiensis178
  • Draconarius hanoiensis 179
  • Drusilla hanoiensis180
  • Emmelostiba hanoiensis: một loài bọ cánh cứng thuộc Họ Cánh cộc tìm thấy ở Hà Nội, Việt Nam năm 2001.
  • Floresorchestia hanoiensis181
  • Heterapoderus hanoiensis
  • Icerya hanoiensis182
  • Issatchenkia hanoiensis: loài nấm tìm thấy và công bố 1 tháng 10 năm 2003.183
  • Miridiba hanoiensis184
  • Oberea hanoiensis
  • Silesis hanoiensis
  • Stenomastax hanoiensis185
  • Stethorus hanoiensis186
  • Tomato leaf curl Hanoi virus187
  • Trachys hanoiensis

Thành phố kết nghĩa

Chỉ dẫn

Chú thích

  1. ^ Hanoi Jewels of the Mekong - Vietnam The Paris of the East
  2. ^ a ă “Niên giám thống kê 2017”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 16 tháng 4 năm 2017. 
  3. ^ “Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 1 tháng 12 năm 2015. 
  4. ^ “Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 1 tháng 12 năm 2015. 
  5. ^ Hiến pháp số 01 của Quốc hội: Hiến pháp năm 1946 Quốc hội Việt Nam, 9/11/1946
  6. ^ Hơi chếch về mạn tây bắc. Xem bản đồ đồng bằng sông Hồng
  7. ^ An Chi. Chuyện Đông chuyện Tây, tập 2. Tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa. Nhà xuất bản Trẻ. Năm 2006. Trang 88.
  8. ^ An Chi. Chuyện Đông chuyện Tây, tập 4. Tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa. Nhà xuất bản Trẻ. Năm 2006. Trang 19.
  9. ^ An Chi. Chuyện Đông chuyện Tây, tập 2. Tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa. Nhà xuất bản Trẻ. Năm 2006. Trang 88 và 89.
  10. ^ Địa giới Hà Nội thời Pháp xâm lược, tạm chiếm, VietnamPlus, truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
  11. ^ a ă â Nguyễn Ngọc Tiến, Tỉnh Hà Nội và thành phố Hà Nội, Hà Nội mới, truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
  12. ^ a ă “Điểm đến - Thành phố Hà Nội”. Tổng cục Du lịch. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  13. ^ a ă â b c d “Thành phố Hà Nội”. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  14. ^ Sông ‘chết’ bao vây Hà Nội, thanhnien, 22.6.2015
  15. ^ Khánh Lan (12 tháng 4 năm 2007). “Sông ngòi Hà Nội đang kêu cứu”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  16. ^ Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến Hà Nội, CỔNG GIAO TIẾP ĐIỆN TỬ HÀ NỘI
  17. ^ Climate of Hanoi.
  18. ^ “World Weather Information Service - Hanoi” (bằng tiếng Anh). World Meteorological Organization. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2012. 
  19. ^ “BBC Weather - Hanoi”. BBC News (bằng tiếng Anh) (BBC). Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011. 
  20. ^ “ПОГОДА в Ханое” [Weather in Hanoi] (bằng tiếng Nga). Weather and Climate (Погода и климат). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2015. 
  21. ^ Giới thiệu tổng quan và khái quát về địa lý thành phố Hà Nội Phương Anh, Cổng Giao tiếp điện tử Hà Nội cập nhật 07:13 25/12/2014
  22. ^ “Solar Energy and Solar Photovoltaics in Vietnam” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013. 
  23. ^ Baron & La Salle. Dictionnaire des Communes administratif et militaire, France métropolitaine et France d'outre-mer. Paris: Charles-Lavauzelle & Cie, 1949.
  24. ^ a ă “Nguồn gốc dân cư”. Khái quát về Hà Nội. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  25. ^ a ă â b Papin, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Fayard. tr. 381–386. ISBN 2213606714. 
  26. ^ “Đánh giá chung tình hình dân số... Phụ lục 2”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  27. ^ “Dân số Hà Nội đứng thứ 2 cả nước” (Thông cáo báo chí). báo Hànộimới. 12 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2011. 
  28. ^ Tổng cục Thống kê (Việt Nam) (1 tháng 4 năm 1999). “Dân số và mật độ dân số tại thời điểm 1/4/1999 phân theo địa phương” (xls). Tổng cục Thống kê (Việt Nam). Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2011. Hà Nội diện tích 921,0 km², dân số 2675166, mật độ dân số 2904,6 
  29. ^ a ă Hồng Khánh (ngày 29 tháng 5 năm 2008). “Địa giới Hà Nội chính thức mở rộng từ 1 tháng 8”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  30. ^ a ă “Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Trang 149-150”. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010. 
  31. ^ “Dân số và mật độ dân số năm 2009 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  32. ^ a ă â “Thời kỳ tiền Thăng Long”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  33. ^ “Hà Nội trong nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc”. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012. 
  34. ^ “Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi?”. VDC. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2006. 
  35. ^ “Thăng Long thời Lý”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  36. ^ “Thăng Long thời Trần”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  37. ^ “Thăng Long - Đông Đô - Đông Quan”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  38. ^ “Thăng Long thời Hậu Lê”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  39. ^ “Đông Kinh Kẻ Chợ thời Mạc và Lê Mạt”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  40. ^ “Thăng Long thời Tây Sơn”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  41. ^ a ă “Thời kỳ Hà Nội”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  42. ^ Nguyễn Vinh Phúc. “Hà Nội nghĩa là gì?”. VDC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  43. ^ An Chi (26 tháng 9 năm 2010). “Nghĩa của hai địa danh Thăng Long và Hà Nội”. Chuyên đề An ninh thế giới số 996 (996) (An ninh thế giới). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011. "trước khi nước Đại Nam bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị thì Hà Nội chưa bao giờ là tên của một kinh thành hay một thành phố cả" 
  44. ^ a ă “Hà Nội thời Pháp thuộc”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  45. ^ Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. UNSW Press. tr. 86. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  46. ^ “Nghị quyết không số của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc mở rộng thành phố Hà Nội” (Thông cáo báo chí). Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II. 20 tháng 4 năm 1961. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012. 
  47. ^ “Quyết định 78-CP chia các khu vực nội thành và ngoại thành của Thành phố Hà Nội” (Thông cáo báo chí). Thủ tướng Hội đồng Chính phủ. 31 tháng 5 năm 1961. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012. 
  48. ^ Herring, George (1979). America's Longest War. John Wikey & Sons. tr. 248. 
  49. ^ Morocco, John (1985). Rain of Fire: Air War, 1969–1973. Boston: Boston Publishing Company. tr. 150. 
  50. ^ “North Vietnam Says 1,318 Dead in the Raids on Hanoi”. New York Times. 4 tháng 1 năm 1973. tr. 3. 
  51. ^ unesco. “DELFT, HANOI, ZUK MIKAEL, QUITO AND TIMBUCTU TO RECEIVE 1998-1999 UNESCO CITIES FOR PEACE PRIZE”. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013. 
  52. ^ “Hà Nội xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm cuối thế kỷ 20”. Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  53. ^ “Hà Nội ngày nay”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  54. ^ Nguyễn Phú Trọng. “Hà Nội - 50 năm chiến đấu, xây dưng và phát triển”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  55. ^ “NGHỊ QUYẾT CỦA KỲ HỌP THỨ 9, QUỐC HỘI KHÓA VIII, NGÀY 12-8-1991 VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG” (Thông cáo báo chí). Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa VIII. 8 tháng 12 năm 1991. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011. 
  56. ^ Nghị định 69-CP năm 1995 về việc thành lập quận Tây Hồ
  57. ^ Nghị định 74-CP năm 1996 về việc thành lập quận Thanh Xuân và quận Cầu Giấy
  58. ^ Nghị định 132/2003/NĐ-CP năm 2003 về việc thành lập quận Long Biên và quận Hoàng Mai
  59. ^ a ă “30% dân số nội thành ở Hà Nội sống dưới mức 3m²/người”. báo Lao động. 1 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  60. ^ Nguyễn Hiền. “Hà Nội phát triển và đầu tư”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  61. ^ Hương Thu. “Không khí Hà Nội 'bẩn hạng nhất châu Á'”. VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012. 
  62. ^ “Hà Nội: Thành lập quận Hà Đông, chuyển TP Sơn Tây thành thị xã”. Tiền Phong. 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  63. ^ Nghị quyết 132/NQ-CP năm 2013 chia huyện Từ Liêm thành 2 quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm
  64. ^ An Trân (ngày 30 tháng 3 năm 2010). “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn 2050”. Hà Nội mới. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  65. ^ “Khu phố cổ”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  66. ^ Văn Phúc Hậu (ngày 5 tháng 2 năm 2006). “Những căn "nhà khổ"”. Đến với khu phố cổ Hà Nội (Sài Gòn giải phóng). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  67. ^ a ă â b Lý Trực Dũng (ngày 21 tháng 2 năm 2008). “Kiến trúc Thăng Long-Hà nội trước ngưỡng cửa 1000 năm”. Tia Sáng. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  68. ^ “Khu thành cổ”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  69. ^ Kim Tân (ngày 1 tháng 8 năm 2010). “Hoàng thành Thăng Long được công nhận di sản văn hoá thế giới”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  70. ^ Kim Tân (ngày 1 tháng 10 năm 2010). “Khai lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  71. ^ Nguyễn Vinh Phúc (ngày 31 tháng 12 năm 2008). “Những khu phố cũ ở Hà Nội”. Báo Người Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  72. ^ “Kiến trúc thời Pháp thuộc”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  73. ^ “Kiến trúc hiện đại”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  74. ^ “Hà Nội có thêm 43 tuyến đường, phố mới” (Thông cáo báo chí). Lưu Vân, báo Diễn đàn Doanh nghiệp. 25 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012. 
  75. ^ “Hà Nội đặt tên cho 34 đường phố mới” (Thông cáo báo chí). Liên Phương, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.  “Bế mạc kỳ họp thứ 5 HĐND thành phố Hà Nội khóa XIV” (Thông cáo báo chí). Báo Hànộimới. 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012. 
  76. ^ "Nghĩa địa chôn" 140.000 tỷ đồng ở Hà Nội, TP HCM?” (Thông cáo báo chí). Ngọc Sơn, báo Diễn đàn Doanh nghiệp. 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012. 
  77. ^ Kiểm tra thực hiện Tháng cao điểm về an toàn PCCC tại Hà Nội Theo báo cáo kết quả thực hiện Tháng cao điểm về an toàn PCCC đối với nhà, công trình cao tầng, siêu cao tầng, trung tâm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2017, hiện tại Hà Nội có 994 nhà cao tầng, 33 Trung tâm thương mại Chu Thúy. Cảnh sát PC&CC TP Hà Nội. Cập nhật lúc: Thứ sáu 28/07/2017 14:37
  78. ^ “Công trình tôn giáo - tín ngưỡng”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  79. ^ “Chùa Trấn Quốc”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.  [sai nguồn]
  80. ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 90. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  81. ^ “Chùa Thầy - Thiên Phúc Tự - Nét đẹp cổ kính”. Đài Truyền hình Việt Nam. Ngày 8 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  82. ^ Thánh đường Hồi giáo giữa lòng thủ đô Mai Uyên, VnExpress 28/4/2014
  83. ^ Thủ tướng chính phủ. “Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ: Về việc phân loại đô thị ở Việt Nam”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2009. 
  84. ^ “Báo cáo kết quả bầu cử HĐND nhiệm kỳ 2016 - 2021” (PDF). TRANG WEB ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 
  85. ^ Anhthu (24 tháng 7 năm 2008). “Công bố trụ sở chính thức của các cơ quan TP Hà Nội (mới)”. Báo Hànộimới. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015. 
  86. ^ “Danh sách Ban chấp hành Đảng bộ TP Hà Nội khóa XVI”. Báo Hànộimới - Cơ quan chủ quản: Thành ủy Hà Nội. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2015. 
  87. ^ “Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2014 - 2019: Phát huy dân chủ, trí tuệ, đổi mới; xây dựng Thủ đô văn minh - hiện đại”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014. 
  88. ^ “Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVI thành công tốt đẹp”. Báo Hànộimới - Cơ quan chủ quản: Thành ủy Hà Nội. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2014. 
  89. ^ “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TP Hà Nội bầu Chủ tịch mới”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016. 
  90. ^ a ă “Gỡ khó, phát triển chăn nuôi tập trung, quy mô lớn”. Báo Hànộimới. Truy cập 29 tháng 10 năm 2015. 
  91. ^ “Hà Nội: Đón trên 1,1 triệu lượt khách du lịch quốc tế”. Tổng cục Du lịch. Ngày 28 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  92. ^ Lê Nam (ngày 18 tháng 12 năm 2008). “Ngành du lịch Hà Nội Phấn đấu đón 10,5 triệu lượt khách du lịch”. Kinh tế & Đô thị. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  93. ^ Khánh Linh (ngày 2 tháng 10 năm 2006). “Du lịch Hà Nội: Nỗi buồn của người tâm huyết...”. Vietnam Net. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  94. ^ Nguyên Minh (ngày 12 tháng 10 năm 2007). “Hà Nội: Chạy đua đầu tư khách sạn cao cấp”. SGGP. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011. 
  95. ^ “Health & safety”. Lonely Planet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  96. ^ T.Mai (ngày 17 tháng 8 năm 2010). “Hà nội qua bưu ảnh cổ: Sân bay Bạch Mai”. Pháp Luật & Xã hội. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012. 
  97. ^ a ă “Giao thông Hà Nội: Tùy tiện, hỗn loạn”. Báo Tin tức VN. Ngày 15 tháng 8 năm 2012. 
  98. ^ 'Hết bịt lại thông' ngã ba - tư: Dấu hiệu phá sản?”. Đất Việt. Ngày 4 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2010. 
  99. ^ Đặng Lê (ngày 8 tháng 12 năm 2006). “Giao thông Hà Nội qua cái nhìn của GS Seymour Papert”. Dân Trí (báo). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  100. ^ a ă Hà Lan (ngày 29 tháng 7 năm 2008). “Quy hoạch giao thông Hà Nội mở rộng: Cần 100.000 tỷ đồng”. Sài Gòn giải phóng. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  101. ^ Thanh Xuân (ngày 29 tháng 4 năm 2008). “Mở rộng Hà Nội, quy hoạch giao thông sẽ như thế nào?”. VTC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  102. ^ T.Trúc (ngày 27 tháng 6 năm 2006). “Hà Nội và TP.HCM trong nhóm 50 thành phố đắt đỏ nhất thế giới”. Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  103. ^ a ă “Gia đình trẻ mua nhà ở Hà Nội: Khó hơn lên trời! (Kỳ II)”. An ninh Thủ đô. Ngày 15 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội vừa cho biết, qua điều tra sơ bộ, trên địa bàn thành phố, chỉ có khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở 
  104. ^ Đức Văn (ngày 5 tháng 8 năm 2009). “Xóm nhà tranh trong lòng Hà Nội”. Lao động. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  105. ^ Nhà nước thiệt hại 3.000 tỉ đồng do quyết định duyệt giá đất của UBND TP Hà Nội Theo Thanh Niên Tuổi Trẻ cập nhật 28/09/2006
  106. ^ “Số cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. 
  107. ^ “Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. 
  108. ^ Cá biệt có khi lên đến 8-9 người bệnh/giường
  109. ^ “Số cán bộ ngành Y trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. 
  110. ^ “Bệnh viện quá tải, Thủ tướng yêu cầu đầu tư cho tuyến dưới” (Thông cáo báo chí). Nam Phương, VnExpress. 24 tháng 11 năm 2009. 
  111. ^ “Hà Nội: quá tải ở các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành” (Thông cáo báo chí). Lan Anh, Tuổi Trẻ (báo). 2 tháng 9 năm 2004. 
  112. ^ Hạnh Ngân (ngày 12 tháng 7 năm 2007). “Năm 2010, Hà Nội sẽ có 2.500 giường bệnh tư nhân”. Tiền Phong. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  113. ^ P. Thanh (ngày 15 tháng 8 năm 2008). “Y tế Hà Nội ngổn ngang khó khăn”. Dân Trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  114. ^ Trạng nguyên Việt Nam#Thống kê
  115. ^ “Đại học Đông Dương: Nền móng của giáo dục đại học hiện đại ở Việt Nam”. Tạp chí Hoạt động Khoa học. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  116. ^ “Số lớp học phổ thông tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  117. ^ “Số trường phổ thông tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  118. ^ “Số học sinh phổ thông tại thời điểm 31/12 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  119. ^ “Danh sách các trường THPT công lập, dân lập và bán công”. Sở Giáo dục và Đào tại Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  120. ^ Tiến Dũng (ngày 29 tháng 10 năm 2008). “Hà Nội dẫn đầu cả nước về số người mù chữ”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  121. ^ “Số giáo viên, số sinh viên đại học và cao đẳng phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  122. ^ Đất vàng ĐH Bách khoa Hà Nội đang bị "xẻ thịt". Dantri, 16/06/2009. Truy cập 02/10/2016.
  123. ^ 12 trường đại học, cao đẳng Hà Nội phải ra ngoại thành. vneconomy, 10/2/2011. Truy cập 02/10/2016.
  124. ^ Di dời các trường đại học ra khỏi nội thành Hà Nội: "Đất vàng" dành cho ai?. cengroup, 17/02/2011. Truy cập 02/10/2016.
  125. ^ a ă Phạm Tấn (ngày 1 tháng 2 năm 2009). “Chuyện bóng đá Thủ đô”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  126. ^ “Thể thao Hà Nội đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất”. Người lao động. Ngày 28 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  127. ^ Minh Giang (ngày 10 tháng 3 năm 2008). “Thể thao Hà Nội vươn ra sân chơi lớn”. Nhân dân. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  128. ^ Huệ Anh (ngày 31 tháng 10 năm 2008). “Sinh viên thiếu sân chơi trầm trọng”. An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  129. ^ X.T. (ngày 2 tháng 9 năm 2003). “Khánh thành sân vận động quốc gia Mỹ Đình”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  130. ^ “Việt Nam giành quyền đăng cai ASIAD 18”. 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014. 
  131. ^ “Việt Nam giành quyền đăng cai ASIAD 2019”. 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014. 
  132. ^ “Việt Nam rút đăng cai ASIAD 18”. 17 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014. 
  133. ^ Tiểu Hàn (17 tháng 4 năm 2014). “Việt Nam rút đăng cai ASIAD 18”. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014. 
  134. ^ “Điểm biểu diễn Văn hóa nghệ thuật”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  135. ^ D. Diễm (ngày 18 tháng 5 năm 2005). “Các bảo tàng loay hoay tìm cách hút khách”. VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  136. ^ “Số thư viện do địa phương quản lý phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  137. ^ “Nguồn lực thông tin”. Thư viện Quốc gia Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  138. ^ Bích Hạnh (ngày 19 tháng 12 năm 2008). “Rạp phim Hà Nội: "Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra"”. VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. "Trong khi có rạp chiếu hoặc là đóng cửa, hoặc hoạt động thoi thóp thì rạp chiếu khác lại phải tận dụng không gian chật hẹp xây thêm phòng chiếu để giải quyết tạm thời tình trạng quá tải" 
  139. ^ “Hà Nội: Nguy cơ cháy ở vũ trường rất cao”. VnExpress. Ngày 9 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  140. ^ “Công viên nước Hồ Tây”. Hiệp hội Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  141. ^ Ngân Tuyền (ngày 11 tháng 9 năm 2008). “Ô nhiễm - Câu chuyện cũ”. Hà Nội đất trăm nghề và nguy cơ mất nghiệp (An ninh Thủ đô). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  142. ^ Hoàng Thắng (ngày 10 tháng 11 năm 2008). “Làng nghề cũng khóc vì ô nhiễm”. Báo Công an Nhân dân. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  143. ^ “Lễ hội Triều Khúc”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  144. ^ “Lễ hội Thánh Gióng”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  145. ^ “Lễ hội Quang Trung”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  146. ^ Trần Thùy Linh (ngày 22 tháng 2 năm 2010). “Lãng phí tài nguyên du lịch: Nghịch lý du lịch lễ hội”. báo Thanh Niên. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2011. 
  147. ^ “Cốm Vòng”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  148. ^ “Bánh cuốn Thanh Trì”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  149. ^ “Chả cá Lã Vọng”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  150. ^ “Phở, bún chả, bún thang Hà Nội được công nhận món ăn đạt giá trị chuẩn châu Á”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2013. [liên kết hỏng]
  151. ^ “Tinh hoa văn hóa Hà Nội”. Thành phố Hà Nội. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  152. ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 80–81. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  153. ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 111. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  154. ^ Tuyết Anh (ngày 5 tháng 1 năm 2009). “Văn hóa thưởng thức cũng cần được tập dượt”. Báo Thể thao Văn hóa. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  155. ^ Đình Hiếu (ngày 5 tháng 1 năm 2009). “Viết cho lễ hội phố hoa Hà Nội năm 2010”. Báo Thể thao Văn hóa. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  156. ^ Anh Thư (ngày 4 tháng 1 năm 2009). “Nhà văn Băng Sơn: 'Xấu hổ cho người Hà Nội'”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  157. ^ "Chị gái" hớ hênh tốc váy khi qua đường dù không mang nội y khiến dân tình sửng sốt. NetLife, 18/10/2016.
  158. ^ 1001 thói xấu của người Hà Nội hiện đại, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 10/12/2012
  159. ^ Quan chức văn hóa đau lòng vì Hà Nội, 04/01/2013, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
  160. ^ Vài lời tâm sự về văn hóa của một người Tây Nguyên gửi người Hà Nội, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 25/08/2012
  161. ^ "Bún mắng, cháo chửi" đang ngày càng phổ biến ở Hà Nội, Báo điện tử Dân trí, Hội Khuyến học Việt Nam
  162. ^ Bún 'mắng', cháo 'chửi', VnExpress.net, 14/9/2008
  163. ^ 'Không buồn với bún mắng, cháo chửi ở Hà Nội', Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô, 15/04/2014
  164. ^ Bún 'mắng', cháo 'chửi', phở xếp hàng vẫn đắt khách, báo điện tử Tiền Phong, 30 tháng 07 năm 2011
  165. ^ Nói người bán phở Hà Nội thô lỗ cũng chẳng oan sai, 21/02/2013, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
  166. ^ Biết "bún mắng, cháo chửi" nhưng sao thực khách ở Hà Nội vẫn cứ ăn?, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 16/07/2012
  167. ^ "Bún mắng, cháo chửi" ở Hà Nội chỉ là một vài trường hợp cá biệt?, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 01/03/2013
  168. ^ Hà Nội tuyên chiến với “rác” ngôn ngữ. laodong, 06/10/2016. Truy cập 06/10/2016
  169. ^ Hà Diệu (ngày 13 tháng 3 năm 2007). “Sáu mươi năm vang vọng một bài ca”. VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  170. ^ “Mười hai tháng 12 mùa hoa Hà Nội”. 
  171. ^ a ă â Tuấn Hải (ngày 31 tháng 1 năm 2008). “"Hà Nội" của Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân đang... biến mất”. Vietimes. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  172. ^ a ă Vũ Hà (ngày 19 tháng 10 năm 2008). “Đâu rồi - Điện ảnh Hà Nội?”. Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  173. ^ Thu Nguyên (18 tháng 3 năm 2007). “Đạo diễn Hải Ninh nhớ "Em bé Hà Nội"”. Dân Trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 
  174. ^ Adoretus (Adoretus) hanoiensis Frey, 1972 (tên chấp nhận) Catalogue of Life: 29th January 2016
  175. ^ Anosia hanoiensis Dufrane 1948 (provisionally accepted name) Catalogue of Life: 2011 Annual Checklist
  176. ^ Revision of the Agathidinae (Hymenoptera, Braconidae) of Vietnam, with the description of forty-two new species and three new genera Achterberg, C., van; Long, K.D. 2010 ZooKeys, 54: 1-184 9 Sep 2010. doi:10.3897/zookeys.54.475
  177. ^ Coccophagus hanoiensis Sugonjaev, 1996
  178. ^ A new species of the genus Dasyhelea Kieffer (Diptera: Ceratopogonidae) from Vietnam Entomologia Sinica Volume 10, Issue 1, pages 69–71, March 2003 doi:10.1111/j.1744-7917.2003.tb00367.x
  179. ^ First record of the subfamily Coelotinae in Laos, with review of Coelotinae embolus morphology and description of seven new species from Laos and Vietnam (Araneae, Amaurobiidae) Journal of Natural History. Volume 42, Issue 35-36, 2008. Published online: 02 Dec 2010 doi:10.1080/00222930802209783
  180. ^ Three new species of Aleocharinae from Vietnam (Coleoptera, Staphylinidae)
  181. ^ Floresorchestia hanoiensis Hou & Li, 2003 2010-12-20 08:10:25 Lowry, Jim
  182. ^ Icerya hanoiensis Jashenko, 1992 (accepted name) Catalogue of Life: 2011 Annual Checklist
  183. ^ Issatchenkia hanoiensis, a new yeast species isolated from frass of the litchi fruit borer Conopomorpha cramerella Snellen Volume 4, Issue 1Pp. 113 - 117. First published online: 1 October 2003. doi:10.1016/S1567-1356(03)00079-5
  184. ^ Miridiba hanoiensis Keith, 2006 (tên chấp nhận) Catalogue of Life: 29th January 2016
  185. ^ Stenomastax hanoiensis Pace 1992
  186. ^ Stethorus (Parastethorus) hanoiensis Hoang Duc Nhuan 1982
  187. ^ Molecular characterization of Tomato leaf curl Hainan virus and Tomato leaf curl Hanoi virus in Vietnam Ha Viet Cuong, Le Van Hai, Tran Ngoc Tiep and Ngo Bich Hao. ISSAAS Journal Volume 17 Number 2 (Dec. 2011)
  188. ^ “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hội kiến Tổng thống Seychelles”. BÁO ĐIỆN TỬ CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Việt Nam. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013. 
  189. ^ “(3)Sisters (friendship) tie-up city etc.”. Trang web của tỉnh Fukuoka. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012. 

Đọc thêm

  • Nguyễn Vinh Phúc (2004). Hà Nội - Con đường, dòng sông và lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Trẻ. 
  • Tô Hoài (2007). Chuyện cũ Hà Nội. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. 
  • Nguyễn Vinh Phúc (2004). Hà Nội qua những năm tháng. Hà Nội: Nhà xuất bản Trẻ. 
  • Clément, Pierre; Nathalie Lancret (2003). Hà Nội chu kỳ của những đổi thay hình thái kiến trúc và đô thị. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.  Chú thích sử dụng tham số |coauthors= bị phản đối (trợ giúp)
  • Nguyễn Vinh Phúc (2004). Phố và đường Hà Nội. Hà Nội: Nhà xuất bản Giao thông Vận tải. 
  • Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. UNSW Press. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  • Papin, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Fayard. ISBN 2213606714. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010. 
  • Boudarel, Georges; Nguyễn Văn Ký (2002). Hanoi: City of the Rising Dragon. Rowman & Littlefield. ISBN 0742516555. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.  Chú thích sử dụng tham số |coauthors= bị phản đối (trợ giúp)
  • Boudarel, Georges; Nguyễn Văn Ký (1997). Hanoi 1936-1996: du drapeau rouge au billet vert. Autrement. ISBN 9782862607191. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.  Chú thích sử dụng tham số |coauthors= bị phản đối (trợ giúp)

(Nguồn: Wikipedia)