Sông Hồng
Sông Thao, Hồng Hà, Nhị Hà,
Nhĩ Hà, sông Cái, Nguyên Giang
Sông
Red River view from bridge in Hanoi.jpg
Mặt nước sông Hồng về mùa lũ (từ trên cầu, gần Hà Nội)
Các quốc gia  Trung Quốc,  Việt Nam
Tỉnh Vân Nam, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định
Các phụ lưu
 - tả ngạn sông Lô
 - hữu ngạn sông Đà
Nguồn
 - Vị trí dãy núi Hoành Đoạn, Nguy Sơn, Đại Lý, Vân Nam, Trung Quốc
 - Cao độ 1.776 m (5.827 ft)
Nguồn phụ
 - Vị trí Tường Vân, Đại Lý, Vân Nam, Trung Quốc
Hợp lưu nguồn
 - cao độ 1.200 m (3.937 ft)
 - tọa độ 25°1′49″B 100°48′56″Đ / 25,03028°B 100,81556°Đ
Cửa sông Cửa Ba Lạt
 - vị trí biển Đông (ranh giới hai huyện Tiền Hải và Giao Thủy)
 - cao độ 0 m (0 ft)
 - tọa độ 20°14′43″B 106°35′20″Đ / 20,24528°B 106,58889°Đ
Chiều dài 1.149 km (714 mi)
Lưu vực 143.700 km2 (55.483 sq mi)
Lưu lượng tại cửa sông
 - trung bình 2.640 m3/s (93.231 cu ft/s)
 - tối đa 30.000 m3/s (1.059.440 cu ft/s)
 - tối thiểu 700 m3/s (24.720 cu ft/s)
Lưu lượng tại nơi khác (trung bình)
 - Việt Trì 900 m3/s (31.783 cu ft/s)
Sơ đồ Sông Hồng và lưu vực
Tọa độ: 20°14′43″B 106°35′20″Đ / 20,24528°B 106,58889°Đ

Sông Hồng có tổng chiều dài là 1,1491 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Nam và đổ ra biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km2 . Đây là dòng sông quan trọng của nền văn hóa lúa nước Việt Nam.

Tên gọi

Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà (tiếng Trung: 紅河 Honghe), hay sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï). Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang (元江, bính âm: yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江). Đoạn từ chảy từ Lào Cai đến "ngã ba Hạc" ở Việt Trì (Phú Thọ) được gọi là sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Lịch sử Việt còn ghi sông với tên Phú Lương.

Dòng chảy và lưu lượng

Dòng chính

Dòng chính (chủ lưu) của sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chi lưu phía đông bắt nguồn từ vùng núi huyện Tường Vân. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái (傣 Dăi), Di (彞), Cáp Nê (哈尼 Hani, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì). Đến biên giới Việt - Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng 80 km; bờ nam sông thuộc Việt Nam, bờ bắc vẫn là lãnh thổ Trung Quốc.

Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam là tại xã A Mú Sung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam. Đến phía đông thành phố Lào Cai, sông thành ranh giới giữa thành phố và huyện Bảo Thắng, đi qua Bảo Thắng và Bảo Yên, dọc theo ranh giới Bảo Yên và Văn Bàn.

Sông chảy qua Văn Yên rồi Trấn Yên (Yên Bái) và thành phố Yên Bái, sang Hạ Hòa (Phú Thọ), dọc theo ranh giới giữa Hạ Hòa, Thanh Ba, thị xã Phú Thọ, Lâm Thao, Việt Trì ở tả ngạn và Cẩm Khê, Tam Nông ở hữu ngạn.

Sông chảy dọc theo ranh giới giữa tỉnh Vĩnh Phúc (các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc) ở tả ngạn và Hà Nội (các huyện, thị Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) ở hữu ngạn. Sông chảy qua Hà Nội với các quận, huyện Đan Phượng, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Thanh Trì ở hữu ngạn và Mê Linh, Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm ở tả ngạn.

Sông thành ranh giới tự nhiên giữa:

  • Hà Nội (Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên) ở hữu ngạn và Hưng Yên (Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Duy Tiên, Lý Nhân) ở hữu ngạn và Hưng Yên (thành phố Hưng Yên, Tiên Lữ) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Lý Nhân) ở hữu ngạn và Thái Bình (Hưng Hà, Vũ Thư) ở tả ngạn;
  • Nam Định (Mỹ Lộc, thành phố Nam Định, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy) ở hữu ngạn và Thái Bình (Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải) ở tả ngạn và đổ ra biển ở cửa Ba Lạt.
Hệ thống sông Hồng
Bản đồ địa lý Sông Hồng và khu vực Bắc Bộ

Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145 km thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai tỉnh đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết3 . Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu tốc chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này.

Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.

Phụ lưu

Các phụ lưu của sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc là sông Đà (có tên là sông Lý Tiên), sông Nậm Na (sông Đăng), sông Lô (Bàn Long) và sông Nho Quế (Phổ Mai) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam thì những phụ lưu trên như sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảysông Gâm), ngòi Phát, ngòi Bo, ngòi Nhù, ngòi Hút, ngòi Thia, ngòi Lao, sông Bứa đổ dồn vào sông Hống phía trên Ngã ba Hạc.

Phân lưu

Từ Ngã ba Hạc xuống hạ lưu thì sông Hồng không nhận thêm nước nữa mà bắt đầu rót nước sang các phân lưu. Phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội (chỗ ngã ba Đông Anh, Hoàn Kiếm, Long Biên) sang Phả Lại ở phía đông thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáysông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), nối sông Hồngsông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định.

Lợi ích và nguy cơ

Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.

Khai thác thuỷ điện

Hoàng hôn trên sông Hồng, nhìn từ cầu Long Biên.

Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào, điều kiện khai thác thuận lợi nhất là công trình trên sông nhánh, cho đến nay đã xây dựng các trạm thuỷ điện sau:

Các trạm phát điện có công suất lắp máy dưới 10.000 kW tổng cộng là 843 với tổng công suất lắp đặt là 99.400 kW và 1 trạm thuỷ điện loại vừa ở Lục Thuỷ Hà có công suất 57.500 kW, như vậy mới khai thác chưa đến 5% khả năng thuỷ điện có thể khai thác trong lưu vực. Tổng công suất các trạm thuỷ điện trong lưu vực có thể khai thác đạt 3.375 triệu kW trong đó dòng chính sông Hồng chỉ chiếm 23% còn 77% tập trung ở các sông nhánh.

Nét nổi bật về khai thác thuỷ điện lưu vực sông Hồng là:

  • Tập trung khai thác thuỷ điện trên các sông nhánh có đầu nước cao lưu lượng nhỏ, kiểu đường dẫn chuyển nước sang lưu vực địa hình thấp là kinh tế nhất.
  • Dòng chính sông Hồng chảy theo đường thẳng, ít gấp khúc và chêch lệch thuỷ đầu tập trung không nhiều vì vậy phần lớn khai thác kiểu thuỷ điện sau đập, có nhiều khó khăn vì núi cao khe sâu phải làm đập cao để tạo đầu nước sẽ không kinh tế.
  • Các thuỷ điện trên sông nhánh thường xa khu dân cư và đất canh tác rất phân tán, làm thế nào để công trình thuỷ điện đồng thời kết hợp cấp nước cho sản xuất và đời sống của nông dân là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết đạt hiệu ích kinh tế.

Nhưng do lượng phù sa lớn, làm nông dòng sông và lưu lượng chảy sẽ kém nên sẽ làm giảm hiệu quả hay phá hủy các công trình thủy điện trong tương lai gần đây.

Lưu lượng

Bản thống kê lưu lượng nước qua từng tháng được thống kê trong bảng sau:

Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Lưu lượng (m3/s) 1318 1100 914 1071 1893 4692 7986 9246 6690 4122 2813 1746

Các tỉnh, thành phố chảy qua

  • Trung Quốc Trung Quốc
    • Vân Nam
  • Việt Nam Việt Nam
    • Lào Cai
    • Yên Bái
    • Phú Thọ
    • Vĩnh Phúc
    • Hà Nội
    • Hưng Yên
    • Hà Nam
    • Nam Định
    • Thái Bình

Các cây cầu

Trên lãnh thổ Việt Nam (theo thứ tự từ bắc đến nam)

Các hình ảnh về sông Hồng

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Bách khoa Toàn thư Việt Nam ghi là 1.126 km
  2. ^ Bách khoa Toàn thư Việt Nam ghi là 556 km
  3. ^ Phan Xuân Hòa. Việt Nam gấm vóc. Sài Gòn: Institut de l'Asie du Sud-est, trang 36.

(Nguồn: Wikipedia)