I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng

1. Âm mưu, hành động chiến tranh của thực dân Pháp

Hai ngày sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, trong cuộc gặp các Khu trưởng và Đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội tại Toà Thị chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Kí Hiệp định đình chiến này không phải là đã hết chiến tranh đâu... Trái lại, hơn bao giờ hết, ta phải luôn luôn chuẩn bị để bồi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực tiếp tục không một giây, một phút nào ngừng..."1.

Đúng như sự phán đoán của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi kí Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước Việt - Pháp (14-9-1946), thực dân Pháp đã bội ước.

Chúng lập ra "Chính phủ Nam Kì tự trị" (l-6-1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu, nhằm tách Nam Kì ra khỏi nước Việt Nam thống nhất. Các cuộc hành binh lấn chiếm của quân Pháp diễn ra liên tiếp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc được triệu tập dưới sự chủ toạ của Tổng Bí thư Trường Chinh. Hội nghị nhận định: "Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định cũng phải đánh Pháp"2. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định một số vấn đề về quân sự, tư tưởng, tổ chức nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến dấu của lực lượng vũ trang trong cả nước.

Trong phiên họp thứ hai (28-10 - 9-l-1946), Quốc hội quyết định thống nhất Quân sự uỷ viên Hội với Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Việc phân chia chiến trường được xác định (cả nước được chia thành 12 chiến khu). Các cán bộ chỉ đạo, chỉ huy chủ chốt được điều về để hoàn tất việc chuẩn bị chiến đấu ở mặt trận Hà Nội (Chiến khu XI).

Ngày 26-10, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng:- Tổng chỉ huy quân đội ta gởi cho Valuy, đề nghị phía Pháp ngừng bắn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vào 0 giờ ngày 30-10 theo quy định của Tạm ước Việt - Pháp (14-9-1946). Pháp đồng ý. Nhưng chỉ 10 ngày sau, chúng lại bội ước tiếp tục đánh ta. Ngày 20-11-1946, chúng đánh chiếm Hải Phòng Và Lạng Sơn, hai cửa ngõ quan trọng đường bộ và đường thuỷ ở Bắc Việt Nam. Tiếp đó, chúng đổ bộ thêm quân lên Đà Nẵng.

Sau nhiều lần tăng viện, đến cuối năm 1946, đội quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Đông Dương lên tới hơn 90.000

tên, gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, 3 trung đoàn thiết giáp và cơ giới, hơn 100 máy bay và nhiều tàu chiến.

Chúng đóng quân tại một số vị trí chiến lược trọng yếu trên đất nước ta.

Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, tổng số quân Pháp khoảng 30.000 tên, gồm có sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9, trung đoàn bộ binh lê dương số 3; 1 tiểu đoàn thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13; 1 trung đoàn thiết giáp; trung đoàn chiến xa cơ động, một bộ phận quân dù, thuỷ quân, không quân, các đơn vị thông tin, vận tải, hậu cần. Dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Anh và Mĩ từ khi đưa quân ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp nuốt lời hứa, ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng chiến tranh. Chúng biến những đội quân "tiếp phòng" thành đội quân chiếm đóng và áp dụng lối đánh lấn dần. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần vùng Đông Bắc, Tây Bắc và tiến công Hải Phòng, Lạng Sơn, chúng chuẩn bị gây hấn ở Hà Nội với mục đích nắm lấy quyền quản lí thủ đô nước ta, hòng "vô hiệu hoá tức thì Chính phủ Hồ Chí Minh". Với mưu đồ ấy, 6.500 lính viễn chinh được bố trí thành những cụm quân cơ động, chiếm giữ những vị trí bịt cửa ngõ thành phố, sẵn sàng đánh úp, chiếm gọn các cơ quan đầu não của ta tại thủ đô Hà Nội. Kế hoạch chuẩn bị tiến công quân sự do Bộ chỉ huy Pháp vạch ra được xúc tiến, chúng chờ tăng thêm viện binh vào tháng 1-1947, sẽ mở một đợt hoạt động có tính chất quyết định, kết thúc công cuộc xâm lược.

Song song với những hành động quân sự, thực dân Pháp còn thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc về chính trị. Ở Tây Bắc, chúng tổ chức bọn tay sai phản động chống lại cách mạng.

Tại một số địa phương, chúng tìm cách liên lạc, móc nối những tên tay sai trong bộ máy cai trị cũ, tập hợp những phần tử phản động cầm đầu trong các tôn giáo chống lại chính quyền dân chủ nhân dân. Để chuẩn bị cho việc thực hiện âm mưu xâm lược toàn diện theo chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, thực dân Pháp ráo riết tìm cách nắm tình hình mọi mặt ở miền Bắc, nhất là lực lượng quân sự và khả năng phòng thủ của ta.

Nguy cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước tới gần. Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Quân và dân ta sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược. Kế hoạch tác chiến ở các thành phố, thị xã được triển khai khẩn trương. Nhân dân, trước hết là các cụ già, trẻ em, những người đau yếu, tàn tật rời khỏi thành phố. Đội công tác đặc biệt được thành lập và lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ. Các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên); Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang); Chợ Đồn (Bắc Kạn) mà trung tâm là các huyện Định Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn được chọn làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. Bước vào tháng 12-1946, quân Pháp tiếp tục khiêu khích ở nhiều nơi, nhất là tại Hà Nội. Chủ trương của ta lúc này là "vẫn tranh thủ khả năng hoà bình", nhưng "phải chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kì"1.Xứ uỷ Nam Bộ cũng nhận được chỉ thị phối hợp chiến lược với chiến trường toàn quốc, "không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc"2. Trong khi khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, Chính phủ ta vẫn kiên trì đấu tranh ngoại giao với Chính phủ Pháp, cố gắng đẩy lùi chiến tranh. Ngày 6-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp ra lệnh cho quân viễn chinh rút về các vị trí trước ngày 20-11-1946. Giới cầm quyền Pháp không trả lời. Ngày 15-12, sau khi Lêông Bơlum (Léon Blum) lên làm Thủ tướng Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thông điệp yêu cầu giải quyết các bế tắc trong mối quan hệ Việt - Pháp. Chính phủ Pháp vẫn làm ngơ, tỏ rõ thái độ tán thành chính sách duy trì sự có mặt của nước Pháp ở Đông Dương.

Được sự đồng tình của Lêông Bơlum, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương càng hung hăng. Ngày 16-12, Đácgiăngliơ đã khôi phục lại các Hiệp ước 1883 và 1884 mà triều đình nhà Nguyễn đã kí với Pháp. Y trắng trợn tuyên bố: "Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ của nước Pháp" .

Tại Hà Nội, trưa ngày 17-12, thực dân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở Lò Đúc, đồng thời gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và Yên Ninh. Trưa ngày 18-12, Pháp gửi tối hậu thư đòi chiếm Sở Tài chính và nhà viên Giám đốc Sở Giao thông; đòi ta phá bỏ công sự và vật chướng ngại trên đường phố.

Chiều ngày 18-12, chúng lại gửi tối hậu thư đòi được quyền kiểm soát Thủ đô và đe doạ đến sáng 20-12, những điều đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.

2. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trong cả nước

Những hành động khiêu khích, xâm lược trên đây của thực dân Pháp xâm phạm nghiêm trọng đến độc lập, chủ quyền nước ta, gây căm phẫn tột độ trong nhân dân ta. Toàn dân, toàn quân nóng lòng chờ đợi mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mọi người đều sẵn sàng đứng lên kháng chiến. Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phân tích hành động khiêu khích, xâm lược của thực dân Pháp trong những tháng cuối năm 1946, nhất là từ giữa tháng 12, Hội nghị nhận định: âm mưu của Pháp là mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược, chuyển cuộc chiến tranh sang một bước mới; thời kì hoà hoãn đã qua, khả năng hoà bình không còn nữa.

Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước và vạch ra những vấn đề rất cơ bản về đường lối kháng chiến. Đây là một quyết định sáng suốt, kịp thời của Đảng ta, đáp ứng được yêu cấu của cách mạng và nguyện vọng của toàn dân.

Sáng 19-12-1946, thực dân Pháp gửi tiếp cho Chính phủ ta một tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến và để cho quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự trong thủ đô Hà Nội.

Cho tới lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gởi thư cho Xanhtơni đề nghị phía Pháp cùng với Chính phủ ta "tìm một giải pháp cải thiện bầu không khí hiện tại". Thực dân Pháp khước từ đề nghị đó.

Trưa ngày 19-12, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Chiến khu và Tỉnh uỷ, chỉ thị "Tất cả hãy sẵn sàng!".

Lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát tín hiệu bắt đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Bộ trưởng Quốc phòng công bố mệnh lệnh chiến đấu cho tất cả các lực lượng vũ trang. Công nhân Nhà máy đèn Bờ Hồ phá máy.

Đèn điện toàn thành phố Hà Nội phụt tắt. Đó là hiệu lệnh tấn công của quân ta. Cùng thời điểm ấy, các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo... đồng loạt nhả đạn vào nội thành. Ở các khu phố, nhân dân quẳng bàn, ghế, cánh cửa, sập gụ, hòm xiểng, bao cát... ra mặt đường. Công nhân đẩy toa tàu chặn các ngã tư, ngã năm. Cây cối, cột điện cũng được ngả xuống ngáng đường. Vật cản vài chiến luỹ dựng lên khắp nơi. Người dân Hà Nội trong tư thế sẵn sàng đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược với tất cả những gì có trong tay và với một ý chí quyết thắng.

Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội nhanh chóng lan rộng ra cả nước.

Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định thiện chí, nguyện vọng hoà bình, quyết tâm kháng chiến và niềm tin tất thắng của nhân dân ta; đồng thời nêu lên tư tưởng cơ bản của đường lối chiến tranh nhân dân. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch tiến công, thôi thúc, giục giã toàn dân Việt Nam đứng dậy cứu nước. Sau khi kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 21-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhân dân Việt Nam nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh để cho thế giới biết rõ mục tiêu và quyết tâm đấu tranh vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Trong thư, Người khẳng định: "Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta có 20 triệu chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của ta rất có bảo đảm...".

3. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng

Trước khi phát động cuộc kháng chiến trong cả nước, Đảng ta đã có những văn kiện quan trọng để kịp thời chỉ đạo toàn dân tích cực chuẩn bị kháng chiến.

Những vấn đề được nêu lên trong bản Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc (25-11-1945), Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng (19-10-1946) và văn kiện Những việc khẩn cấp bây giờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết kinh nghiệm của hơn một năm đánh Pháp, đã đặt cơ sở cho sự hình thành đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng la.

Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Chỉ thị nêu rõ mục đích, tính chất, chương trình kháng chiến. Những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến đã được nêu cô đọng trong bản văn kiện lịch sử này. Tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng những nội dung đó là những vấn đề thiết yếu cơ bản nhất để lãnh đạo, dẫn dắt toàn dân, toàn quân ta trong quá trình kháng chiến.

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (18-19 - 12-1946) tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), trên cơ sở phân tích tình hình so sánh lực lượng giữa địch và ta, xác định chính xác ý đồ chiến lược của thực dân Pháp, cùng với quyết định phát động kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, cũng nêu lên một số vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.

Tháng 3-1947, Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh đã kịp thời tổng kết cuộc chiến đấu và viết một loạt bài đăng liên tiếp trên 11 số báo Sự thật (năm 1951 đổi tên thành báo Nhân dân) nhằm giải thích rõ thêm đường lối kháng chiến. Những bài báo này được tập hợp và in thành sách, lấy tên là Kháng chiến nhất định thắng lợi (xuất bản tháng 9-1947). Đây là một văn kiện quan trọng của Đảng ta, góp phần tổ chức, giáo dục, động viên quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đồng thời phân tích một cách khoa học đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh do Trung ương Đảng vạch ra từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.

Xuất phát từ sự tin tưởng vào khả năng cách mạng của quần chúng, Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân. Đây là nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, là tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo mọi kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng. Với đường lối kháng chiến toàn dân, chúng ta sẽ tạo được thế trận cả nước cùng đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài.

Chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến.

Đảng chủ trương tiến hành kháng chiến toàn diện, nghĩa là kháng chiến trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội . . . nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh thắng cuộc chiến tranh tổng lực của thực dân Pháp.

Kháng chiến lau dài bắt nguồn từ sự phân tích, đánh giá, so sánh lực lượng giữa hai bên trong buổi đầu kháng chiến. Đánh lâu dài là bí quyết của sự thắng lợi. Kháng chiến lâu dài với tư tưởng chiến lược nhất quán là tư tưởng tiến công, là chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam nhằm đánh thắng kẻ thù có ưu thế về kinh tế và quân sự. Trong quá trình kháng chiến, Đảng ta chủ trương vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân, vừa đánh vừa chuyển hoá so sánh lực lượng giữa ta và địch, đồng thời tận dụng những chuyển biến của tình hình quốc tế có lợi cho cuộc kháng chiến, giành thắng lợi từng bước, đánh bại từng kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thời gian sẽ ủng hộ chúng ta và là thầy chiến lược của ta nếu dân tộc ta quyết tâm kháng chiến bền bỉ.

Tự lực cánh sinh là một trong những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến, xuất phát từ quan điểm quần chúng, tin vào khả năng cách mạng và sức mạnh to lớn của quần chúng.

Đường lối đó cũng bắt nguồn từ thực tế lịch sử của đất nước trong những năm đầu kháng chiến. Chỉ có tự lực cánh sinh mới phát huy được mọi khả năng tiềm ông trong quằn chúng; đồng thời mới tranh thủ có hiệu quả sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược do Đảng và Chính phủ vạch ra là sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự thừa kế và phát huy ở trình độ cao những kinh nghiệm đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.

Đường lối đó là nguồn gốc dẫn đến mọi thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

II- Cuộc Chiến đấu của quân và dân ta ở thủ đô và các đô thị khác phía Bắc vĩ tuyến 16

Theo chủ trương của Bộ Tổng chỉ huy, mục tiêu cuộc tiến công quân sự của quân và dân ta là Hà Nội, tiếp đó là các thành phố Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương... nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch; chặn đánh, giam chân địch một thời gian trong thành phố, thị xã, tạo điều kiện thuận lợi cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài.

Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại thủ đô Hà Nội, bảo vệ các cơ quan đấu não của Đảng và Nhà nước.

1- Cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội

Cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội diễn ra trong điều kiện so sánh lực lượng giữa hai bên rất chênh lệch.

Về phía thực dân Pháp, tính đến tháng 12-1946, ở Hà Nội, chúng có 6.500 sĩ quan và binh lính được trang bị mạnh, đóng tại 45 địa điểm. Tất cả các điểm đóng quân của Pháp tạo thành một thế bao vây, chia cắt nội thành Hà Nội, khống chế những nơi đóng quân và kèm chặt các cơ quan đầu não của ta. Vũ khí của quân Pháp khá tối tân: 42 khẩu sơn pháo 75 mm, lựu pháo 100 và pháo 37 mm bố trí 2 trận địa ở sân bay Gia Lâm và trường Anbe Xarô, có thể bắn vào hầu hết các mục tiêu trong Hà Nội. Lực lượng xe máy bao gồm 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp bố trí ở trong thành là một lực lượng cơ động phản kích mạnh. Sân bay Gia Lâm có 30 máy bay sẵn sàng chi viện cho chiến trường Hà Nội và một số vùng ven đô.

Ngoài ra, ở Hà Nội lúc đó còn có 13.000 Pháp kiều sống tập trung trong hai khu vực nối tiếp nhau thành một dải rộng lớn cắt đôi thành phố. Trong số này, nhiều người được trang bị vũ khí; nhiều căn nhà đã trở thành những ổ chiến đấu bí mật.

Một số tàu chiến của thuỷ quân Pháp khống chế đường sông, sẵn sàng chi viện cho quân Pháp ở nội thành. Với lực lượng và cách bố trí như trên, chúng hi vọng chỉ trong 24 giờ sẽ nhanh chóng đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của ta; bao vây, chia cắt, tiêu diệt ta và làm chủ thành phố Hà Nội trong thời gian ngắn; đồng thời đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân ta nói chung, thực hiện âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.

Biết rõ âm mưu của kẻ thù, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo: Chiến khu Hà Nội không thể rơi vào thế bất ngờ, nếu đích đánh trước ta có thể quật lại ngay, trận đánh ở thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiêu biểu cho tinh thần kháng chiến của cả nước, Hà Nội cần giam chân địch ít nhất là một tháng, tạo điều kiện cho cả nước chuyển sang chiến tranh.

Về phía ta, lực lượng vũ trang Hà Nội có 5 tiểu đoàn Vệ quốc, trang bị vũ khí thô sơ và thiếu thốn: 9 khẩu đội pháo binh gồm những khẩu sơn pháo, pháo chống tăng, pháo cao xạ cũ kĩ được bố trí ở Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo, Đào Xuyên... Ngoài ra, còn có 8 trung đội công an xung phong, 1 đại đội tự vệ chiến đấu và đông đảo nhất là lực lượng dân quân, tự vệ nội, ngoại thành (khoảng 28.500 người), trang bị chủ yếu bằng lựu đạn, dao, kiếm.

Mặc dù lực lượng rất chênh lệch, nhưng quân và dân Hà Nội vẫn ngoan cường chiến đấu. Lần đầu tiên xung trận, quân và dân ta khó tránh khỏi lúng túng và thiếu sót. Có những trận đánh được chuẩn bị khá công phu, nhưng kết quả thu được chưa tương xứng; có trận ta bị thiệt hại. Tuy nhiên, với khí thế nhất tề xông lên, quân và dân Hà Nội đã giành được quyền chủ động và phá tan thế trận bao vây của quân Pháp, đẩy chúng vào tình trạng bị động đối phó. Chỉ trong vài giờ đầu, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn và tự vệ, với sự giúp đỡ của nhân dân, đã tiêu diệt phần lớn các ổ chiến đấu của quân Pháp.

Trong các trận đánh của quân và dân thủ đô đêm 19-12, oanh liệt nhất là trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ - nơi đặt trụ sở làm việc của Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, nhà làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trận chiến đấu ở Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, Cửa Nam, nhất là ở khu chợ Đồng Xuân đều là những trận đánh tiêu biểu cho khí phách anh hùng và sự kết hợp giữa lòng dũng cảm với trí thông minh, sáng tạo của các chiến sĩ cảm tử thủ đô, của nhân dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.

Từ trong khói lửa chiến đấu ác liệt, ngày 6-1-1947, Trung đoàn Thủ đô chính thức thành lập. Lực lượng của Trung đoàn gồm ba tiểu đoàn, với số quân gắn 2.000 người, có cả phụ nữ, người nhiều tuổi và thanh, thiếu niên đã từng sống, chiến đấu bảo vệ thủ đô trong những ngày đầu kháng chiến.

Trải qua hai tháng (19-12-1946 - 18-2-1947), quân và dân Hà Nội đánh gần 200 trận, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch, giam chân chúng nhiều ngày để hậu phương kịp tổ chức, triển khai thế trận kháng chiến lâu dài; bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển về căn cứ an toàn, bảo vệ hàng vạn đồng bào thủ đô rời thành phố về vùng hậu phương.

Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội tượng trưng cho ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam quyết đánh thắng quân đội xâm lược nhà nghề của một đế quốc để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.

2- Cuộc chiến đấu ở các đô thị khác

Cùng với tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội, từ đêm 19-12-1946, quân và dân các thành phố, thị xã Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng... cũng đồng loạt tiến công địch.

Trừ thành phố Vinhthị xã Bắc Ninh, còn lại trong các thành phố và thị xã khác, cuộc chiến đấu kéo dài từ một đến ba tháng. Quân địch ở Vinh bị ta tiêu diệt ngay trong đêm đầu. Tại Bắc Ninh, địch rút chạy về Hà Nội sau 10 ngày chiến đấu.

thành phố Nam Định - nơi được thực dân Pháp coi là quan trọng vào hàng thứ ba sau Hà Nội và Hải Phòng, quân và dân ta bao vây địch trong gần ba tháng (từ 19-12-1946 đến 12-3-1947), diệt hơn 400 tên. Địch mở nhiều đợt tiến công phá vây nhưng đều bị quân ta đánh lui. Sau khi có quân đến ứng cứu, địch tăng cường những cuộc phản kích. Để bảo toàn lực lượng, ngày 12-3- 1947, quân ta rút khỏi thành phố.

thành phố Huế, bị quân ta tiến công mạnh, địch buộc phải cố thủ trong các căn cứ chiếm đóng. Trong 50 ngày đêm tiến công và bao vây, quân và dân ta đã diệt hơn 200 tên địch, hạ 1

máy bay, phá 3 xe thiết giáp, nhiều xe vận tải, thu nhiều súng đạn.

thành phố Đà Nẵng, quân và dân ta tiến công, bao vây, cô lập sân bay và đánh lùi nhiều đợt tiến công phá vây của địch.

Đầu tháng 1-1947, được tăng viện, quân Pháp điều 2.000 quân lên giải vây sân bay, thành phố.

Tại Nam Bộ, quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá bình định, "không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung - Bắc".

Phong trào kháng chiến ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên có bước phát triển mới. Quân và dân ta liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của địch, giữ vững vùng tự do.

Cuộc chiến đấu vây đánh địch trong các thành phố, thị xã của quân và dân ta đã đánh bại âm mưu và kế hoạch của thực dân tháp định đánh úp cơ quan đầu não kháng chiến tại Hà Nội, tiêu diệt lực lượng vũ trang ta ở các thành phố lớn; đã tiêu diệt và vây hãm quân địch dài ngày trong các thành phố, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến, xây dựng thế trận đánh địch lâu dài. Âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bước đầu bị phá sản. Cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã khác còn có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn dân tộc, gây thanh thế cho kháng chiến. Nó giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của kẻ thù, đặt tiền đề vững chắc cho thắng lợi trong những năm tiếp theo.

III- Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược

1. Công tác di chuyển, thực hiện "Tiêu thổ kháng chiến ”

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, với tầm nhìn chiến lược về một cuộc chiến tranh sắp tới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân công Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa.

Cuối tháng 10-1946, sau chuyến đi thăm Pháp và kí Tạm ước 14- 9-1946, thấy trước nguy cơ một cuộc chiến tranh với Pháp sắp nổ ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến.

Tháng 11-1946, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt do Trần Đăng Ninh phụ trách. Đội gồm đại biểu các ngành quân sự, an ninh, chính quyền, đoàn thể chăm lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn để đặt trụ sở các cơ quan Trung ương. Từ giữa tháng 12-1946, một số cán bộ của Đội công tác đặc biệt lần lượt lên Việt Bác làm nhiệm vụ.

Sau vụ thực dân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng và Lạng Sơn (20-11-1946), công việc chuẩn bị cho các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận rời khỏi thủ đô Hà Nội được đẩy mạnh, đợt tổng di chuyển được bắt đầu.

Cuối tháng 12-1946, sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan Trung ương lần lượt rời Hà Nội về phía tây nam, chuyển đến địa phận các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây (thị xã Hà Đông, Thanh Oai, Chương Mĩ - Hà Đông; Quốc Oai, Thạch Thất - Sơn Tây...); sau đó (đầu năm 1947), chuyển đến địa phận các tỉnh thuộc căn cứ Việt Bắc. Các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên); Chợ Đồn (Bắc Kạn); Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) được chọn làm an toàn khu (ATK) của Trung ương Căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trước đây trở thành căn cứ địa kháng chiến của cả nước.

Từ Việt Bắc, đầu mối liên lạc dần dần được nối thông với các miền, các địa phương. Từ đây, căn cứ địa Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến của cả nước. Việc xây dựng ATK Trung ương ở Việt Bắc thể hiện tính chủ động, tầm nhìn chiến lược sáng suất của Đảng và Chính phủ. Việc di chuyển kịp thời và an toàn các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, trước hết là các cơ quan Trung ương, là thắng lợi lớn có ý nghĩa chiến lược.

Để bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến lâu dài, việc chuyển máy móc, nguyên vật liệu... lên căn cứ địa được tiến hành khẩn trương. Trong điều kiện ta không có phương tiện vận tải, lại phải đi qua nhiều chặng đường đã bị phá hoại, việc vận chuyển thực sự là một công việc đầy khó khăn, nặng nhọc. Nhờ sự tận tình của cán bộ, công nhân các ngành, sự giúp đỡ không tiếc công sức của nhân dân dọc đường di chuyển, chỉ trong vòng 3 tháng đầu kháng chiến, ta đã vận chuyển được hơn 3 vạn tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu ra vùng căn cứ. Riêng ở Bắc Bộ, gần 2/3 máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc. Nhờ đó, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ta đã xây dựng được 57 cơ sở công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng; sản xuất đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng cho các lực lượng vũ trang và nhu cáu tối thiểu cho đời sống nhân dân.

Trong các công tác chuẩn bị vật chất cho kháng chiến lâu dài, vấn đề tích trữ muối và gạo được đặc biệt chú ý. Ngay từ mùa hè năm 1946, các cơ quan chức năng đã được chỉ thị thu mua và vận chuyển muối từ đồng bằng ven biển lên căn cứ. Nhờ có hàng vạn tấn muối được chuyển kịp thời lên Việt Bắc, Tây Bắc, nên khi miền duyên hải bị địch chiếm đóng, hậu phương kháng chiến vẫn có một lượng muối dự trữ cần thiết cho đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân.

Cũng ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tổ chức việc thu mua, bảo vệ, bảo quản thóc, gạo chu đáo. Bộ Tài chính đặt kho dự trữ thóc, gạo phân tán ở nhiều nơi.

Cục Quân nhu có hệ thống kho tại các tỉnh Hà Đông, Ninh Bình, Sơn Tây, Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang...

Đồng thời với hoạt động "di chuyển" ở thời kì đầu của cuộc kháng chiến là hoạt động "tiêu thổ" để kháng chiến; vận động và tổ chức "tản cư” nhằm đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân, nhanh chóng chuyển đất nước sang thời chiến.

Bài học kinh nghiệm của ông cha thực hành kế thanh dã, vườn không nhà trống trong lịch sử chống ngoại xâm được vận dụng triệt để Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: "Phá hoại nhiều hơn bắn; triệt để làm cho địch đói, khát, què, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán nản"1. Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (12 đến 16-1-1947) nêu rõ mức độ phá hoại đối với từng vùng, từng nơi. Ngày 16-1-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến: "Đánh thì phải phá hoại...

Bây giờ ta phải phá đi, để chặn bọn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng. Ta vì nước hi sinh, chịu khổ một lúc. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết sửa sang lại . . . ".

Hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của công tác phá hoại để kháng chiến, từ đầu tháng 12-1946, các địa phương đã lập được kế hoạch phá hoại. Các Ban phá hoại được tổ chức và đi vào hoạt động.

Công tác phá hoại để kháng chiến diễn ra trong khí thế cách mạng sục sôi của quần chúng. Với tinh thần yêu nước cao độ và với niềm tin tất thắng, nhân dân ta tự tay mình phá sấp nhà cửa, xí nghiệp, hầm mỏ; đào hào, đắp ụ, dựng vật cản trên các đường giao thông thuỷ, bộ. Nhiều thành phố, thị xã bên thành bình địa, biểu thị sức mạnh phi thường của ý chí quyết tâm kháng chiến và niềm tin tất thắng của nhân dân ta. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1946 đầu năm 1947, quân và dân ta đã phá hoại 1.060 km đường sắt, 5.640 km đường ô tô 30.500 cầu cống 59.100 ngôi nhà, 84 đầu máy và 868 toa tàu hoả... Điều đó đã góp phần làm chậm bước tiến quân thù và hãm chúng vào một tình thế khó khăn.

Tuy nhiên, trong công tác phá hoại để kháng chiến, một số địa phương còn phá tràn lan. Ngược lại, có nơi mắc bệnh chủ quan, chưa tích cực thực hiện; Ban phá hoại tuy thành lập nhưng chưa hoạt động.

Để chuyển đất nước vào chiến tranh, một công việc khó khăn, phức tạp là tổ chức đưa, đón hàng chục vạn đồng bào tản cư ra khỏi các vùng có chiến sự. Lúc đầu, do chưa có kinh nghiệm, không dự kiến hết số lượng người tản cư và tình hình chiến sự chuyển biến sau khi địch đánh rộng ra ngoài các thành phố, nên Uỷ ban tản cư nhiều cấp không làm chủ được tình hình, dẫn đến tình trạng ở một số vùng nhân dân hoang mang, chạy vòng quanh và có tâm lí tạm bợ.

Trước tình trạng trên, từ trung tuần tháng 2 và đầu tháng 3- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Nội vụ cử người về các địa Phương (kể cả vùng địch mới chiếm đóng) để có biện pháp khắc phục. Người chỉ thị cho Uỷ ban hành chính các cấp: "Vô luận thế nào cũng không được bỏ dân bơ vơ". Nhờ đó, từ tháng 4-1947, công tác tản cư, di cư dần dần đi vào nền nếp; đồng bào tản cư nhanh chóng hoà nhập với nhân dân các địa phương, ổn định đời sống, cùng tham gia các hoạt động kháng chiến, kiến quốc.

Sau khi việc di chuyển đã hoàn thành, chỗ ở và làm việc của các cơ quan và đồng bào tản cư ổn định, Nhà nước bắt tay xây dựng lực lượng về mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.

2- Xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài

a) về chính trị

Từ khi chiến sự bắt đầu lan rộng, kháng chiến được xác định là nhiệm vụ hàng đầu, nên hình thức tổ chức chính quyền và tên gọi của Uỷ ban hành chính không còn phù hợp. Vì vậy, một ngày sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ngày 20-12-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số l/SL về việc thành lập Uỷ ban bảo vệ tại các khu quân sự, các đơn vị hành chính từ cấp tỉnh trở xuống; quy định thành phần, chức năng và quyền hạn của Uỷ ban bảo vệ các cấp. Từ tháng 3-1947, Chính phủ ra các sắc lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều khoản về Uỷ ban bảo vệ các cấp từ khu xuống đến cơ sở. Theo đó, mỗi Uỷ ban bảo vệ khu và tỉnh có 1 đại biểu quân sự, 1 đại biểu hành chính và 3 đại biểu nhân dân. Uỷ ban bảo vệ huyện gồm 3 đại biểu (quân sự, hành chính và nhân dân). Uỷ ban bảo vệ xã có 1 đại biểu nhân dân và 1 đại biểu quân sự.

Uỷ ban bảo vệ là tổ chức gồm các thành phần quân, dân, chính.

Chiến sự lan tới đâu, Uỷ ban bảo vệ ở đó đổi thành Uỷ ban kháng chiến. Như vậy, từ đầu năm 1947, từ cấp khu xuống đến xã, bên cạnh Uỷ ban hành chính còn có Uỷ ban kháng chiến. Sự tồn tại cơ chế hai chính quyền ở địa phương không tránh khỏi tình trạng cồng kềnh, chồng chéo, dẫm đạp lên nhau.

Nhằm khắc phục tình trạng đó, ngày 27-8-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 91/SL về việc hợp nhất Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính các cấp từ tỉnh trở xuống thành Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính.

Căn cứ vào sắc lệnh trên, cơ quan hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã được kiện toàn. Uỷ ban cấp xã có 5 uỷ viên, trong đó có 3 uỷ viên hành chính, 1 uỷ viên quân sự và 1 uỷ viên nhân dân. Uỷ ban cấp huyện, tỉnh gồm 7 uỷ viên, trong đó có 3 uỷ viên hành chính, 1 uỷ viên quân sự và 3 uỷ viên nhân dân.

Trong quá trình củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương các cấp, Trung ương Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục phẩm chất, tư cách đạo đức của cán bộ, nhân viên Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, nhân viên Nhà nước, trước hết là đảng viên phải thật thà, đoàn kết, thương yêu nhau, phải kiên quyết tẩy rửa đầu óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, vô kỉ luật, ích kỉ ... Nhờ đó, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp từ xã đến Liên khu đã gánh vác được vai trò thay mặt Chính phủ tổ chức và điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc tại địa phương mình.

Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng chiến, công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức được các cấp từ Trung ương xuống các tỉnh đặc biệt coi trọng. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh trong bộ đội, dân quân, trong các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước và cả trong các vùng sau lưng địch.

Hàng vạn công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang được kết nạp Đảng. Các tổ chức cơ sở của Đảng đã ăn sâu bám rễ trong nhân dân. Hầu hết các địa phương đã lập được huyện uỷ, nhiều nơi lập được chi bộ liên xã.

Hệ thống tổ chức của Đảng trong quân đội cũng từng bước được kiện toàn.

Song song với công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể quần chúng cũng không ngừng được củng cố về tổ chức.

Tổ chức Công đoàn ngày càng thu hút được nhiều đoàn viên và phát huy được vai trò động viên, tổ chức công nhân thi đua sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật.

Các Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc có đông đảo hội viên tham gia, thường xuyên giáo dục, động viên các hội viên tích cực đóng góp sức người, sức của phục vụ kháng chiến.

Công tác vận động thanh niên có bước tiến triển mới. Từ năm 1947, các tổ chức Đoàn Thanh niên cứu quốc, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam, Tổng hội Sinh viên Việt Nam được củng cố và lần lượt mở đại hội.

Công tác vận động đoàn kết với giới trí thức, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân, làm thất bại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt”của thực dân Pháp.

b) về quân sự

Khi cả nước bước vào kháng chiến, vấn đề xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang trở thành một nhiệm vụ cấp bách, không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn đảm bảo cho kháng chiến lâu dài.

Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (l-1947) nêu rõ: "Trong các khu cần phải tổ chức ngay bộ đội bổ sung, việc tuyển lựa bộ đội này phải được Bộ Quốc phòng chuẩn y trước..."1.

Ngày 12-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 16/SL thành lập Phòng Dân quân, trực thuộc Cục Chính trị. Tiếp theo, ngày 19- 2, Bộ Quốc phòng ra Thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, tự vệ, du kích. Hàng chục vạn quần chúng, thuộc đủ các lứa tuổi, hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Đến cuối năm 1947, tại nhiều địa phương, ở các xã đã có từ 1 đến 2 trung đội dân quân tự vệ; ở huyện có từ 1 đến 2

trung đội du kích thoát li, ở tỉnh có từ 1 đến 2 đại đội du kích thoát li. Với phong trào "cướp vũ khí địch đánh địch", nhiều đơn vị dân quân, tự vệ và du kích dần dần tự trang bị được vũ khí tốt hơn.

Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam; đồng thời quyết định thành lập các ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội thuộc Uỷ ban kháng chiến các cấp. Việc huấn luyện được tổ chức thường xuyên và đi dần vào nền nếp. Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ có chế độ huấn luyện thường kì cho dân quân, tự vệ và du kích.

Từ mùa hè năm 1947, kháng chiến mở rộng, hàng chục vạn quần chúng thuộc mọi tầng lớp hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Hàng nghìn làng kháng chiến bước đầu được xây dựng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt coi trọng.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự lần thứ 3 (6-1947), Bộ Tổng chỉ huy điều động cán bộ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trường Quân chính về thị xã Bắc Kạn mở các lớp bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Hàng trăm cán bộ các cấp dược bổ túc về quân sự và chính trị. Tháng 8-1947, Bộ Tổng chỉ huy mở lớp bổ túc cán bộ Đảng cấp toàn quân tại xã La Bằng (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc và huấn thị cho lớp học. Ngoài ra, nhiều khu tỉnh cũng mở các khoá đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ dân quân, tự vệ, du kích từ cấp tiểu đội đến đại đội.

Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân du kích, phong trào xung phong tòng quân cũng diễn ra sôi nổi trong thanh niên. Chỉ trong mùa hè năm 1947, đã có 35.000 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, nâng tổng số bộ đội chủ lực từ 85.000 người (trước ngày toàn quốc kháng chiến) lên 125.000 người.

c) về kinh tế

Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp tự túc, phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân vùng tự do, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu ngày càng lớn của chiến trường. Hội nghị cán bộ Trung ương (từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947) đề ra một chương trình kinh tế kháng chiến gồm hai mặt: - Phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá hoại; làm cho địch không kinh doanh, bóc lột gì được, không thực hiện được chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".

- Xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, lập nền kinh tế tự túc.

Hội nghị cán bộ Trung ương còn đề ra phương châm xây dựng nền kinh tế phù hợp với điều kiện chiến tranh: Chỉ sản xuất những thứ cần dùng cho mặt trận và đời sống của nhân dân... Về các ngành kinh tế chú trọng nhất là nông nghiệp, thương mại rồi mới đến kĩ nghệ (chú ý kĩ nghệ chế tạo vũ khí và khai thác)...

Quán triệt phương châm trên, Chính phủ đề ra nhiều chính sách quan trọng: Chính sách tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu "Thực túc binh cường", "ăn no đánh thắng"; chính sách tiết kiệm và đồng cam cộng khổ; chính sách tôn trọng quyền tư hữu tài sản hợp pháp của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế; chính sách điều hoà lợi ích...

Mặc dù có sự chuẩn bị từ trước, nhưng cuộc kháng chiến nổ ra vẫn làm cho nền kinh tế bị đảo lộn. Sản xuất công nghiệp và thương mại ở các thành phố lớn bị ngưng trệ. Nông nghiệp cũng gặp khó khăn, nhất là những vùng bị địch chiếm. Trước tình trạng đó, Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo: Phương hướng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất trong kháng chiến là chú trọng nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng; khuyến khích hình thức kinh tế cá nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế Nhà nước.

Trong nông nghiệp, nhiều chính sách và biện pháp lớn được ban hành, bao gồm: Chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, chính sách phát triển sản xuất gắn liền với chính sách ruộng đất, chính sách nhân công, chính sách cải tiến kĩ thuật, chính sách bảo vệ sản xuất. Phong trào tăng gia sản xuất rầm rộ khắp nơi, góp phần thiết thực nâng cao tiềm lực kinh tế kháng chiến.

Riêng các vùng tự do, trong năm 1947, nhân dân ta đã cấy được 1.893.700 ha lúa, thu được 2.194.000 tấn thóc; trồng được 243.000 ha hoa màu, thu được 474.000 tấn, tăng 189% so với năm 19411.

Cùng với sản xuất nông nghiệp, trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những xí nghiệp quốc phòng và dân dụng có quy mô thích hợp đã lần lượt được xây dựng ở vùng tự do và vùng căn cứ kháng chiến. Công nghiệp quốc phòng là hệ thống công nghiệp quan trọng nhất trong thời kì kháng chiến. Ngay từ đầu kháng chiến, trong quá trình di chuyển cơ sở vật chất kĩ thuật đến căn cứ, Bộ Tổng chỉ huy đã xác định phương hướng tổ chức các xí nghiệp quốc phòng là: Xây dựng một hệ thống các xưởng với nhiều thiết bị máy móc, công nhân để chế tạo, sản xuất lớn; xây dựng một hệ thống chuyên môn hoá, như sửa chữa vũ khí, đúc lựu đạn, nhồi lắp lựu đạn; xây dựng một số tổ, kíp sửa chữa nhỏ đi lưu động để sửa chữa vũ khí. Tính đến cuối năm 1946, ngành Quân giới đã có 20

cơ sở lớn và nhỏ với 2.500 công nhân. Đầu tháng 2-1947, Chính phủ ra quyết định thành lập Cục Quân giới thay cho Cục Chế tạo. Có thể nói, ngành Quốc phòng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nguyên vật liệu, kĩ thuật sản xuất, tổ chức quản lí, đào tạo cán bộ, công nhân. Nhịp độ sản xuất vũ khí, đạn dược tăng rất nhanh. Tính theo trọng lượng tấn và lấy chỉ số năm 1946 là 100, thì năm 1947, từ Liên khu IV trở ra là 707; năm 1948 là 1.044. Đến giữa năm 1947, ở các khu, tỉnh từ Bắc đến Nam đã xây dựng được 168 binh công xưởng, mỗi xưởng có từ 200 đến 500 công nhân. Ngoài các xưởng quân giới do Bộ Quốc phòng tổ chức, còn có các xưởng vũ khí dân quân do các địa phương tự xây dựng và chỉ đạo. Riêng Liên khu Việt Bắc đã có tới 8 xưởng sản xuất vũ khí.

Song song với công nghiệp quốc phòng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương phát triển công nghiệp dân dụng, trong đó có một số cơ sở thuộc thành phần quốc doanh. Nhiệm vụ của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh là cung cấp giấy bạc, giấy in, giấy viết vải xà phòng, bóng đèn... phục vụ các cơ quan dân chính và các yêu cầu dân sinh.

Ngành Thủ công nghiệp được xây dựng, phát triển với quy mô nhỏ phân tán, kết hợp công cụ sản xuất thô sơ với máy móc, dựa vào dân và nguyên liệu trong nước, địa phương tự lập, sản xuất tự cấp tự túc. Nhờ đó, ngay từ đầu ngành thủ công nghiệp đã tập trung giải quyết những mặt hàng tối cần thiết như dệt, giấy, ấn loát, xà phòng, chén, bát, chiếu, đường, nước mắm...

Thương nghiệp, tiền tệ, giá cả đã có sự chuyển hướng cho phù hợp với thời chiến. Đầu năm 1947, Chính phủ giao cho Nha Tiếp tế thuộc Bộ Kinh tế nhiệm vụ thu mua và dự trữ thóc gạo.

Cơ quan Phân phối muối (thuộc Bộ Tài chính) tổ chức vận chuyển muối của Nhà nước và muối trên thị trường tự do đưa về các khu an toàn.

Về tiền tệ, ngày 15-5-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48/SL cho lưu hành bạc Việt Nam (bạc tài chính) trong toàn quốc.

Khối lượng giấy bạc Đông Dương cũ của Pháp được ta thu về làm vốn trang trải cho Ngành Ngoại thương. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, nên đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt.

Vùng tự do Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lưu hành giấy bạc tài chính do Trung ương phát hành. Các tỉnh Khu V, chủ yếu là 4

tỉnh tự do (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) lúc đầu lưu hành tiền tài chính Trung ương, đầu tháng 7-1947, theo Sắc lệnh số 231/SL-M ngày 18-7-1947, Chính phủ cho phép Uỷ ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ được phát hành tín phiếu và lưu hành song song với tiền tài chính một thời gian (từ năm 1952, Chính phủ cho thu hồi bạc tài chính chỉ còn lưu hành tín phiếu). Ở Nam Bộ, do địch đánh toả ra sớm, nên tại các căn cứ kháng chiến những năm 1947, 1948, một số nơi lưu hành bạc tài chính Trung ương do Khu V chuyển vào. Ngày 11/1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ được phát hành một số loại tín phiếu có giá trị như giấy bạc Việt Nam.

d) về văn hoá, giáo dục, y tế

Đảng và Nhà nước chủ trương không để các hoạt động thuộc những lĩnh vực trên bị đứt đoạn vì chiến tranh, mà phải được tiếp tục phát triển và phục vụ tốt cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Đảng và Chính phủ đã dành sự quan tâm to lớn cho sự phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điều kiện từng bước phát triển khoa học và kĩ thuật phục vụ kháng chiến.

Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 (từ ngày 3

đến 6-4-1947) chỉ rõ: Động viên tất cả giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, dùng các nhà trí thức văn hoá, chuyên môn vào ngành công tác như quân giới, quân y, giáo dục, tuyên truyền kháng chiến, chú trọng mở mang giáo dục kháng chiến...

Vừa kháng chiến, dân tộc ta vừa xây dựng một nền văn hoá mới, có tính chất hợp với tinh thần dân tộc độc lập, hợp với khoa học, tiến bộ, hợp với tình hình và trình độ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ ở mọi miền đất nước đã khoác ba lô lên đường kháng chiến. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều hướng vào phục vụ kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất cả để chiến thắng". Nhiều truyện ngắn, phóng sự, nhạc phẩm, thơ ca được sáng tác, đề cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niêm tin vào thắng lợi của kháng chiến. Các tác phẩm văn nghệ, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và báo chí ở các vùng tự do đã góp phần đắc lực vào công tác tuyên truyền chủ trương của Chính phủ, cổ vũ tinh thần kháng chiến của quân và dân ta, chống lại các luận điệu tuyên truyền phản động của địch.

Ngành Giáo dục đã có một bước tiến mới về nội dung, phương hướng đào tạo trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Hội đồng Chính phủ xác định phải tổ chức lại nền giáo dục ngay trong thời kì chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phương châm giáo đục là học đi đôi với hành, tổ chức giáo dục chính là thực hiện kháng chiến bằng văn hoá; giáo dục là văn hoá của cuộc kháng chiến. Yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đòi hỏi phải sửa đổi chương trình giáo dục, phải biên soạn sách và sửa đổi cách dạy cho phù hợp. Nội đung chương trình và phương pháp đào tạo theo phương châm thiết thực là chính, nhưng phải đề cao chất lượng..

Dù chiến tranh ngày càng ác liệt và việc tổ chức lớp học ngày càng khó khăn, nhưng chính quyền các cấp và các cơ quan giáo dục đã cố gắng duy trì hệ thống giáo dục trong vùng giải phóng.

Nền giáo dục kháng chiến được tổ chức khá đa dạng và toàn diện. Ngoài báo dục hệ chính quy gồm các trường phổ thông và cao đẳng, đại học còn có hệ bổ túc văn hoá và hệ thống các trường chính trị, quân sự.

Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và mở rộng.

Năm 1947, Khu X mở được 153 lớp, huấn luyện đào tạo 3.745 giáo viên, động viên trên 1 30.000 học viên theo học các lớp Bình dân, gấp 5 lần so với số lượng học viên năm trước. Tại các tỉnh Liên khu V và Bình - Trị - Thiên. mặc dù bị địch bao vây bắn phá, nhưng các cấp chính quyền dân chủ nhân dân đã khắc phục khó khăn để bám đất, bám dân nhằm từng bước khôi phục các lớp Bình dân học vụ theo khẩu hiệu "Tay bút, tay súng", "Diệt dốt xâm lăng". Đến cuối năm 1947, cả nước đã thanh toán nạn mù chữ cho trên 1,2 triệu người, trong đó có nhiều làng, xã ở Hải Dương và Thái Bình được công nhận xoá xong nạn mù chữ.

Ngành Giáo dục phổ thông phát triển khá nhanh. Tính đến tháng 6-1947, số học sinh tiểu học ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lên tới 147.000 em, tăng 47% so với tháng 12-1946. Nội dung giảng dạy và phương thức hoạt động trong các nhà trường phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Chế độ thi cử xác nhận bậc học của học sinh và tuyển chọn học sinh vào các lớp trên được duy trì. Tháng 4-1947, Chính phủ ra Nghị định mở kì thi Trung học và Tiểu học trong cả nước. Đến cuối năm 1947, đã có hàng nghìn trường tiểu học và trung học thu hút hàng vạn con em nhân dân đến lớp học.

Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.

Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ y tế phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân.

Một số cơ sở đại học và trung học y - dược chuyển từ Hà Nội lên Việt Bắc tiếp tục hoạt động. Mạng lưới y tế địa phương, gồm các trạm cứu thương, trạm xá, phòng phát thuốc, bệnh xá, bệnh viện từng bước hình thành: Cuộc vận động thực hiện nếp sống vệ sinh được phát động thường xuyên.

Những thành tựu về các mặt nói trên tuy mới là bước đầu, nhưng đó là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho quân và dân ta giành thắng lợi trên mặt trận quân sự, trước mắt là đập tan cuộc tấn công của giặc Pháp trong Thu - Đông 1947.

IV. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.

1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc đã trải qua 5 tháng. Về cơ bản, chúng ta đã đạt được các mục tiêu chiến lược do Trung ương Đảng đề ra: "Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ... Chiến sự ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ khá hơn trước.

Quân du kích của ta ở đó hoạt động dữ, đã thu được nhiều kết quả khá"1.

Về phía thực dân Pháp, ở Bắc Bộ, tuy đã được tăng viện lên 11 tiểu đoàn Âu - Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chỉ đủ sức chiếm giữ một số thành phố, thị xã (Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng). Trên con đường giao thông chiến lược nối liền Hà Nội với Hải Phòng, tuy địch đã sử dụng một lực lượng bảo vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động của quân ta; không có cuộc hành quân nào của địch trên tuyến đường này được an toàn.

Về phía ta, bộ đội chủ lực vẫn được bảo toàn và phát triển cả về số lượng và trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn. Thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố và mở rộng. Như vậy là âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bước đầu bị thất bại. Cuộc chiến tranh vẫn kéo dài và ngày càng mở rộng đã khiến cho thực dân Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, quân số thiếu hụt. Số quân tăng viện nhỏ giọt từ Pháp sang không sao khắc phục được tình trạng phân tán, dàn mỏng lực lượng trên các chiến trường. Một bộ phận binh sĩ địch bắt đầu tỏ ra chán ghét chiến tranh. Những vụ phản chiến xuất hiện ở một số nơi. Trước tình hình trên, thực dân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ giữa thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, chúng vừa cố tạo ra một chính quyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúng bằng một thứ lí tưởng đối lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về quân sự, chúng vừa bình định miền Nam, vừa tập trung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở miền Bắc, hòng đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương.

Trong phiên họp ngày 9-6-1947, Hội đồng phòng thủ Đông Dương thông qua trên nguyên tắc cuộc tiến công mùa thu 1947

với mục đích: bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc. . . loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào; truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”1. Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, đến đầu tháng 9-1947, kế hoạch tiến công lớn trên chiến trường Bắc Bộ của Bộ chỉ huy Pháp càng lộ rõ. Ngày 10- 9-1947, tại Hà Đông, trong một bài diễn văn bằng những lời lẽ lừa bịp, lắt léo Bôlaec (Bollaert) thay mặt Chính phủ Pháp tuyên bố không có lí do gì để kéo dài chiến tranh, nhưng vẫn ngoan cố không công nhận độc lập của Việt Nam, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh. Như vậy, thực dân Pháp có ý đồ kết thúc cuộc chiến tranh bằng một cuộc tiến công quân sự chớp nhoáng.

Kế hoạch tiến công Việt Bắc do Xalăng (Salan), Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương vạch ra, đến tháng 7-1947, được Chính phủ Pháp phê chuẩn. Kế hoạch này trước hết nhằm bao vây, tiến tới tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh; dùng thắng lợi quân sự để xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc Đánh lên Việt Bắc, thực dân Pháp còn nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn con đường liên lạc giữa cách mạng Việt Nam với quốc tế.

Lực lượng Pháp tung ra trong cuộc tiến công gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh; tất cả là 12.000 quân.

Kế hoạch tấn công của địch lên Việt Bắc được thể hiện trên hai bước: Bước 1 : Một cuộc hành quân mang mật danh LEA, tập trung càn quét ở vùng Chợ Đồn, Bắc Kạn, Chợ Mới (nay thuộc tỉnh Bắc Kạn) : + Ngày 7-10, nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8-10

xuống Chợ Đồn và càn quét các vùng xung quanh; ngày 9-10, hai cánh quân ở Bắc Kạn và Chợ Đồn sẽ gặp nhau ở Bản Pè (cách Bắc Kạn 20 km trên hướng Bắc Kạn - Chợ Đồn).

+ Ngày 10-10, chiếm Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng tiến xuống Bắc Kạn (dự kiến ngày 12), sau đó từ Chợ Đồn tiến ra Đài Thị (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), liên lạc với cánh quân hướng tây (Đường số 2 - sông Lô) vào ngày 13.

+ Sau khi hoàn thành tổ chức phòng thủ ở Chợ Mới (dự kiến ngày 11) sẽ tiến hành càn quét và tuần tiễu trên Quốc lộ số 3 . . .

- Bước 2: Một cuộc hành quân mang mật danh Clo - Clo, dự kiến: + Chiếm Chợ Chu (dự kiến ngày 14-10) từ nhiều hướng: Từ Bắc Kạn, Chợ Mới tiến về, nhảy dù trực tiếp xuống Chợ Chu (l đại đội) và nhảy dù xuống phía nam Chợ Chu, khoá đường Chợ Chu - Thái Nguyên.

+ Sau đó sẽ càn quét trong vùng, tuỳ theo tin tình báo... 1 .

Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 7-10, cuộc hành quân mang mật danh "LEA" bắt đầu được triển khai: - Khoảng 8 giờ 15 phút sáng 7-10-1947, binh đoàn quân dù do Trung tá Xôvanhắc (Sauvagnac) chỉ huy lần lượt đổ quân xuống thị xã Bắc Kạn, nơi chúng nghi có cơ quan đầu não kháng chiến. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, chúng thả tiếp một bộ phận quân dù xuống thị trấn Chợ Mới nhằm khống chế tuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn và lấy đó làm nơi tập kết những đạo quân lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Ngày hôm sau (8-10), chúng cho quân nhảy dù xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn).

Trên đường bộ, sáng 7-10-1947, binh đoàn bộ binh thuộc địa do Trung tá Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy, xuất phát từ Lạng Sơn theo Đường số 4 tiến lên chiếm Cao Bằng, rồi một bộ phận tiến xuống Bắc Kạn, vòng sang Chợ Đồn, lên Chiêm Hoá (Tuyên Quang), hình thành một gọng kìm lớn ở hướng đông bắc.

Ngày 9-10, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ, do Trung tá Commuynan (Communal) chỉ huy, từ Hà Nội theo sông Hồng lên Việt Trì (ngày 11-10), rẽ sang sông Lô lên Tuyên Quang (ngày 13-10) và đến Khe Lau (nơi hợp lưu giữa sông Lôsông Gâm), quân Pháp ngược dòng sông Gâm lên Chiêm Hoá. Hai cánh quân thuỷ, bộ sẽ gặp nhau tại Đài Thị (cách Chiêm Hoá 12 km về phía đông bắc).

Như vậy, khu vực càn quét, đánh phá của địch nằm trong vùng tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên, rộng khoảng 3.600 km2; trong đó, khu vực trọng điểm là Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến tập trung ở phía tây nam Chợ Chu sát trung tâm càn quét của địch, nằm trong tình thế bị uy hiếp.

2- Quân và dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch

Ngày 15-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị: Bôlaec nói gì - Ta phải làm gì?. Sau khi vạch trần âm mưu của Bôlaec, Chỉ thị nêu những nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta. Ban Thường vụ Trung ương nhắc nhở quân và dân cả nước tích cực chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công Thu - Đông của giặc Pháp, ra sức làm vườn không nhà trống, xây dựng làng chiến đấu và mở rộng tuyên truyền, vận động binh lính địch.

Từ ngày 27 đến ngày 29-9-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 để thống nhất nhận định về hướng tiến công của địch. Hội nghị nhận định: "Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc... Tấn công lên Việt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, nối liền đường Hà Nội - Lạng Sơn..." 1.Hội nghị chủ trương nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa các khu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá âm mưu lập ngụy quyền của địch; kiên quyết thực hiện đánh du kích chiến và vận động chiến, dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trường của mỗi địa phương, tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến, tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá trang lẫn vào dân khi cần. . .

Ngày 4-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh gửi các Khu, khẳng định "thế nào địch cũng có những cuộc hành binh lớn"; có thể “quét vùng đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa Việt Bắc". Mệnh lệnh nêu rõ phương án tác chiến dối với từng tình huống và dự kiến nếu đánh Việt Bắc, hướng tiến công của địch sẽ là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên; hướng kiềm chế hay phối hợp ở phía tây là vùng Hoà Bình, Sơn La; phía Đông là Bắc Giang, Lạng .Sơn. Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho các Khu I, X, XII và các đơn vị chủ lực thuộc Bộ sẵn sàng đón đánh địch, đồng thời chỉ thị cho các chiến trường toàn quốc đánh mạnh để kiềm chế địch, phối hợp với Việt Bắc.

Tối 7-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ: "Sáng ngày 7-10, Pháp nhảy dù chiếm Bắc Kạn, Chợ Mới, mưu tấn công Việt Bắc. Vậy Đoàn thể ra lệnh cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ tích cực chỉ huy bộ đội định mạnh để chia sẻ lực lượng địch và phá kế hoạch mùa khô của chúng" 1.

Ngày 9-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn. Bản Chỉ thị nêu lên nhiệm vụ trước mắt của tỉnh lúc này là dùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lị, "giam chân địch ở đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường này: Đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, Bắc Kạn - Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu” 1. Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Phải phá tan cuộc cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Chỉ thị vạch rõ phương hướng hành động cụ thể của quân và dân ta là bao vây giam chân địch tại những căn cứ chúng vừa chiếm, triệt để làm vườn không nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm đóng; chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế.

Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận: - Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hoá, quân và dân ta liên tục chặn đánh địch; điển hình là các trận Đoàn Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Nhiều tàu chiến, ca nô địch bị bắn cháy.

- Trên mặt trận Đường số 4 diễn ra nhiều trận phục kích, tiêu biểu là trận đánh tại đèo Bông Lau (30-10-1947): Phá huỷ 27 xe cơ giới, diệt và bắt 240 địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Đây là trận đánh giao thông điển hình trên chiến trường Bắc Bộ. Đường số 4 bị uy hiếp, trở thành con đường chết đối với giặc Pháp.

- Ở mặt trận Đường số 3, tại Bắc Kạn, Chớ Mới, quân và dân ta nhanh chóng khắc phục tình trạng bị động, lúng túng ban đầu, hình thành thế trận bao vây, chia cắt địch. Sau khi Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Khu I điều thêm lực lượng về Bắc Kạn, hoạt động của quân ta tại mặt trận này tăng dần lên. Các đại đội độc lập cùng dân quân, tự vệ liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông; phục kích địch trên các trục đường Bắc Kạn đi Chợ Đồn, Phủ Thông, Chợ Mới.

Vừa đánh địch, ta vừa khẩn trương tổ chức di chuyển các cơ quan, công xưởng, kho tàng đến những nơi an toàn. Phối hợp với Việt Bắc, quân và dân cả nước đẩy mạnh các hoạt động kiềm chế địch. Ở Hà Nội, Sài Gòn, những tên Việt gian đầu sỏ Trương Đình Tri, Nguyễn Văn Sâm lăm le đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đã bị trừng trị đích đáng.

Quân và dân Nam Bộ liên tiếp diệt từng tốp lính địch. Tây Nguyên phát triển công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở đến tận buôn làng, thành lập căn cứ kháng chiến ở nhiều nơi.

Trước tình thế bế tắc, Bộ chỉ huy Pháp quyết định vừa tổ chức rút lui vừa huy động thêm lực lượng cùng với các lực lượng đã tham gia Kế hoạch LEA mở cuộc càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương, trên một phạm vi rộng hơn 8.000 km2. Kế hoạch này mang tên Xanhtuya (Ceinture), nhằm tiếp tục "lùng bắt kì được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa". Hướng càn quét chủ yếu của địch là Thái Nguyên, hai hướng khác là Sông Thương - Yên Thế và khu vực Chợ Mới - Tuyên Quang xuống đồng bằng. Ngày 20-11, đợt tiến công mới của địch bắt đầu.

Nhận thấy hiện tượng địch chuẩn bị rút quân, ngày 10 và 29- 11, Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ thị cho các mặt trận bố trí lại lực lượng, bám sát hoạt động của địch, không bỏ lỡ thời cơ diệt địch, chống khuynh hướng "ăn to", coi thường trận nhỏ; đồng thời phát động rộng rãi phong trào khắp nơi đánh giặc, khiến cho quân Pháp đi tới đâu cũng bị chặn đánh.

Trên tất cả các hướng địch hành quân, chúng đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt Tại các địa điểm: Bình Ca, La Hoàng (Tuyên Quang), Đèo Giàng (Bắc Kạn), Quán ông Già, Phú Minh, Bản Ngoại, Yên Rã (Đại Từ, Thái Nguyên) đều vang lên tiếng súng diệt địch.

Các cánh quân Pháp đều bị thiệt hại nặng nề trên đường rút chạy.

Do không đạt được mục tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiết hại nặng nề , ngày 21-12-1947, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, đánh đấu thất bại chiến lược đầu tiên trong cuộc chiến tranh xam lược của chúng.

Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, vận dụng nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6.000 địch, bắn rơi 16 máy bay; bắn cháy, bắn chùn 11 ca nô, tàu chiến; phá huỷ hàng trăm xe quân sự; tịch thu của địch hơn 100 khẩu pháo, súng cối các loại, hàng ngàn súng bộ binh cùng với hàng chục tấn quân trang, quân dụng. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.

Mặc dù quân Pháp còn kiểm soát đoạn đường biên giới Lạng Sơn - Cao Bằng, tuyến Đường số 3 từ Cao Bằng về Bắc Kạn và phá hoại được một số kho tàng, thị trấn, làng bản của ta, nhưng chúng đã không thực hiện được những mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công.

Sau thất bại trong Chiến dịch Việt Bắc, tinh thần chiến đấu của binh lính Pháp sa sút, giảm lòng tin vào sự chỉ huy và phương tiện chiến tranh hiện đại. Giới cầm quyền thực dân lục đục, mâu thuẫn; nước Pháp đứng trước những khó khăn mới.

Chiến thắng Việt Bắc chứng minh đường lối kháng chiến do Đảng và Chính phủ đề ra là đúng đắn; đồng thời cũng khẳng định quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đập tan một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn của giặc Pháp.

Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947, so sánh lực lượng giữa hai bên trên chiến trường đã có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, với đòn quyết định đè bẹp đối phương, kết thúc chiến tranh, dựng lại nền thống trị của thực dân Pháp đã hoàn toàn phá sản. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận đánh lâu dài với ta.

Cũng qua cuộc đọ sức này, quân và dân ta càng hiểu rõ hơn đối tượng tác chiến, tích luỹ thêm kinh nghiệm chiến đấu.

Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 là thắng lợi chung của quân và dân cả nước, cổ vũ mạnh mẽ toàn quân và toàn dân ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

V- Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược

1. Âm mưu của thực dân Pháp sau thất bại ở Việt Bắc

Sau thất bại trong cuộc tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Chúng thay đổi lại việc bố trí lực lượng, thay đổi cách đóng quân, thực hiện âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Trong vùng Pháp chiếm đóng, chúng ra sức xây dựng chính quyền bù nhìn và thành lập một đội quân người bản xứ để làm công cụ phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Ngày 23-5-1948, Pháp chấp nhận đề nghị của Bảo Đại lập ra “chính phủ trung ương lâm thời của Việt Nam", do Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau khi thành lập, Chính phủ Nguyễn Văn Xuân đã phải làm lễ từ chức vì quá yếu kém và thối nát. Từ năm 1949, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, đặc biệt là sự ra đời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1-10- 1949) đã làm cho đế quốc Mĩ lo sợ ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực châu Á, nên tiến cách ép Pháp phải nới thêm quyền cho Bảo Đại; đồng thời tăng cường can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 8-3-1949, tại điện Êlydê (Élyséc) ở Phu, Tổng thống nước Cộng hoà Pháp kí với Bảo Đại một hiệp định dưới hình thức trao đổi thư. Theo hiệp định này, Pháp khẳng định Việt Nam có toàn quyền cai trị nhưng phải có cố vấn chính trị Pháp bên cạnh; Việt Nam có quân đội riêng nhưng do người Pháp huấn luyện; quân đội Pháp có quyền đóng trên đất việt Nam và được toàn quyền tự do hành động; chính phủ Bảo Đại chỉ được lập Đại sứ quán tại Thái Lan, Trung Hoa Quốc dân đảng và Toà thánh Vaticăng. ..

Ở trong nước, chính phủ bù nhìn có một số hoạt động như củng cố lại Bộ Tư pháp, quy định sự hạn chế của Sở Kinh tế, đặt một số loại thuế mới, mở phòng thông tin; đồng thời mở chiến dịch tuyên truyền nhằm nâng cao uy tín cho Bảo Đại, cử phái đoàn sang Pháp để đón Bảo Đại về nước. Trong tháng 5 và 6- 1949, chính phủ bù nhìn từ cấp trung ương xuống đến xã và các "xứ tự trị" đều tập trung gây uy tín cho Bảo Đại. Ở một số nơi, chúng tổ chức phát gạo, vải, quần áo cho dân nghèo, phóng thích một số phạm nhân, tổ chức mít tinh, diễn thuyết ca ngợi Bảo Đại.

Đứng trước tình hình nội bộ mâu thuẫn, các phe phái tranh giành quyền lực, ngày 1-7-1949, Bảo Đại đứng ra lập chính phủ, tự xưng là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng "Quốc gia Việt Nam"; Nguyễn Văn Xuân làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. "Cái Quốc gia Việt Nam " này không có cơ sở nhân dân, không có Quốc hội, ngay một Quốc hội tư vấn cũng không có, không có Hiến pháp và trong nhiều năm, không có cả ngân sách. Một vài cái gọi là Đảng chính trị của nó chỉ là những đoàn thể, những bè phái lộng quyền, những môn khách của các nhân vật tai mắt. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào quân đội, cảnh sát và ngân khố của nước Pháp" 1. Sau khi thành lập chính phủ, Bảo Đại đã kí một số đạo dụ, trong đó có Đạo dụ số 1 (l-7-1949) về tổ chức và điều hành các cơ quản công quyền ở Việt Nam và Đạo dụ số 2 (1-7-1949) về Quốc hội lập hiến, Quốc trưởng, Chính phủ và Hội đồng tư vấn. Đạo dụ số 2 còn quy định: Về phương diện hành chính, lãnh thổ Việt Nam có 3 phần: Bắc Kì, Trung, Nam Việt Tại mỗi phần có Thủ hiến đại diện cho Chính phủ Trung ương, có các cấp hành chính tỉnh, quận, tổng, xã...

Ngày 21-1-1950, trước sức ép của Mĩ, Pháp để cho Bảo Đại thành lập chính phủ mới do Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Ngoại giao và Nội vụ. Phan Huy Quát làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ Quốc phòng.

Cũng giống như chính phủ Nguyễn Văn Xuân trước đây, chỉ một thời gian ngắn sau khi thành lập, chính phủ Nguyễn Phan Long đã phải giải tán do quá ngả theo Mĩ và nội bộ mâu thuẫn tranh giành nhau về địa vị và quyền lợi. Ngày 6-5-1950, một chính phủ mới được thành lập, do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng.

Cùng với việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ương, thực dân tháp tăng cường bộ máy chính quyền tay sai cấp cơ sở.

Tại cấp tỉnh, đến đầu năm 1948, tất cả các tỉnh lị bị Pháp chiếm đóng đều đã lập Hội đồng an dân. Quyền hạn của Hội đồng an dân được nới rộng hơn so với trước. Theo quy định của cuộc họp Hội nghị hành chính ngày 8-11-1947 của Hội đồng an dân, các chức vụ Đại lí, Chủ tịch, Tổng đốc từ nay được gọi là Tỉnh trưởng cai quản một tỉnh, quận trưởng cai quản một huyện, đồng thời có một cố ván người Pháp ở bên cạnh.

Ở các tỉnh và thành phố lớn như Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình thuận, Long An..., Pháp đặt Toà cố vấn chính trị bên cạnh Toà tỉnh trưởng. Giúp việc cho Toà tỉnh trưởng có các phòng và các sở chuyên môn như: Sở Đoàn (Sở thuế), Sở Ngoại kiều, Sở Địa chính, Sở Kinh tế, Sở Kho bạc, Sở Cảnh sát... Ở các tỉnh nhỏ thường không có Toà cố vấn chính trị, mà những viên quan chỉ huy quân sự người Pháp của một khu vực (secteur) hay một vùng (zone) trực tiếp ra mệnh lệnh cho Tỉnh trưởng thi hành các quyết định, chỉ thị của Pháp.

Tại cấp huyện, ở những nơi Pháp chưa lập được các hội tề thì gọi là Huyện trưởng hay Trưởng khu (Chef secteur). Còn ở những nơi đã lập xong hội tề thì gọi là Quận trưởng, có nơi gọi là Tri huyện hay Tri phủ.

Ở cấp tổng, thời gian này Pháp cho đặt lại chức Chánh tổng, Phó tổng; có nơi đặt thêm chức Tuần tổng hay Chánh, Phó tổng đoàn.

Ở các xã, thực dân Pháp kết hợp các hoạt động quân sự với việc dụ dỗ, lừa phỉnh, mua chuộc nhân dân để thành lập hội tề.

Hội tề lấy tên là Hội đồng hương chính, thành phần gồm có: Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lí trưởng, Phó lí, Thư kí, Thủ quỹ, Trương tuần. Nhiệm vụ của Hội đồng hương chính chủ yếu về kinh tế và xã hội, trông nom trật tự trị an, canh phòng, kê khai số trâu bò, thóc gạo, nhân khẩu trong xã, thi hành những mệnh lệnh của Pháp, tiếp tế và do thám chỉ điểm cho Pháp. Thông qua hội tề, thực dân Pháp nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, gây cơ sở và thanh thế cho chính phủ bù nhìn. Hội tề còn là tai, mắt, dò xét cơ sở kháng chiến. Ngoài ra, hội tề còn giúp Pháp tuyển mộ binh lính và làm tấm bình phong bảo vệ đồn bốt.

Bằng những hoạt động càn quét, khủng bố gắt gao kết hợp với những thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp, thực dân Pháp đã lập được hội tề ở rất nhiều nơi. Tính đến tháng 2-1948, ở Hà Đông đã có 74 làng lập hội tề; trong tỉnh Hải Dương, huyện Cẩm Giàng có 81 xã, huyện Kim Thanh có 12 xã, huyện Bình Thanh có 5 xã, huyện Gia Lộc có 9 xã ... lập hội tề. Có thể nói, hầu hết các địa phương bị thực dân Pháp chiếm đóng đã lập hội tề.

Như vậy, cho đến đầu năm 1948, cùng với việc tăng cường bình định củng cố những vùng đã chiếm đóng, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các vùng đồng bằng và một số tỉnh vùng trung du Bắc Bộ, vùng ven biển Trung Bộ, Nam Bộ và cao nguyên Trung Bộ. Đánh chiếm tới đâu, chúng tiến hành lập chính quyền bù nhìn tới đó. Nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách chia để trị. Từ tháng 4 đến tháng 7-1948, chúng thành lập các "xứ tự trị " ở các vùng dân tộc thiểu số: Xứ Nùng tự trị (4-1948) ở vùng Tiên Yên, Móng Cái; Liên bang Thái (4-1948) ở Sơn La, Lai Châu; Xứ Mường tự trị (5-1948) ở Hoà Bình; Xứ Tây Kì tự trị (6-1948) ở Tây Nguyên; Liên bang Tày (7- 1948) ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Đứng đầu các "xứ tự trị" là các thổ ty, lang đạo, nhưng quyền hành thực tế vẫn nằm trong tay những cố vấn người Pháp. Cùng với việc thành lập các "xứ tự trị", Pháp còn cho lập các "Đội nghĩa binh áo chàm", các "đội quân tự trị", phong cấp bậc cao cho những tên cầm đầu. Chúng tìm cách lôi kéo, mua chuộc các đạo Cao Đài, Hoà Hảo và một bộ phận của Bình Xuyên, sử dụng lực lượng vũ trang tôn giáo chống lại kháng chiến. Đầu năm 1950, theo lệnh của Pháp, chính phủ bù nhìn tiến hành cải cách hành chính từ cấp xã lên cấp quận. Tổ chức hành chính trong xã được quy định như sau: Mỗi xã gồm một Xã uỷ (trước gọi là Lí trưởng) một Phó xã uỷ (trước là Phó lí) đảm nhiệm công việc hành chính trong xã, quan hệ trực tiếp với các cấp Tổng, Bang, Quận tuỳ theo từng trường hợp công việc. Đối với những xã có nhiều thôn hay nhiều xóm thì bầu thêm Trưởng thôn và Trưởng xóm để giúp Chánh và Phó xã uỷ. Ngoài ra còn có Thư kí giúp việc văn phòng cho Xã uỷ, Hộ lại trông coi việc hộ tịch, Chưởng bạ phụ trách việc điền thổ kiến diện. Bên cạnh Chưởng bạ thành lập một Hội đồng nông biểu, có Chủ tịch, Phó Chủ tịch là Hội trưởng và Hội phó, một thư kí kiêm thủ quỹ. Ở mỗi xã còn thành lập một Hội đồng quản trị hành chính. Bên cạnh Hội đồng quản trị hành chính có Ban tư vấn xã với số nhân viên không quá 10 người. Ban tư vấn có nhiệm vụ đề xuất sáng kiến cho Hội đồng quản trị hành chính.

Mỗi tổng có một Tổng uỷ (trước gọi là Chánh tổng) và Tổng tuần do các xã bầu lên. Giúp việc có 1 thư kí văn phòng và 1 thư kí kế toán lo việc sổ sách thu chi và phụ cấp hằng tháng cho tổng dũng. Ngoài ra còn có 1 Trưởng ban Bình dân giáo dục, 1

Phó Trưởng ban và 4 kiểm soát viên Bình dân giáo dục. Bên cạnh Tổng uỷ có một Hội đồng tư vấn để giải quyết mọi việc trong tổng và làm cố vấn cho Tổng uỷ và Tổng tuần.

Bên cạnh việc cải cách hành chính, chính quyền bù nhìn còn tiến hành nhiều biện pháp củng cố bộ máy chính quyền các cấp.

Chúng cho quân lính tăng cường lùng sục bắt bớ, cưỡng ép thanh niên đi lính cho Pháp; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao uy tín cho Bảo Đại. Mặt khác, thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn đã thành lập nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo, đảng phái phản động để phá hoại kháng chiến, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nhân dân. Trong số đó, đáng chú ý là Đại Việt Quốc dân đảng gồm những phần tử thân Mĩ do Lê Thăng, Nguyễn Tôn Hoàng, Phan Huy Quát... cầm đầu; Phục Quốc đồng minh do Nông Quốc Long cầm đầu; Việt Nam Quốc dân đảng do Vũ Hồng Khanh cầm đầu, Việt Nam quốc gia phục hưng đảng do Ngô Đình Diệm cầm đầu, v.v...

Sau thất bại ở Việt Bắc thu - đông 1947, thấy rõ cuộc chiến tranh sẽ kéo dài, không thể sớm kết thúc, thực dân Pháp quyết định tập trung lực lượng để bình định, củng cố những vùng đã chiếm đóng. Thời kì này, quân Pháp tiếp tục đánh sâu vào vùng nông thôn của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng, khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến ven biển và Nam Trung Bộ.

Cùng với các hoạt động ra sức đánh phá cơ sở cách mạng, lùng sục vây bắt cán bộ, du kích, đốt phá cướp bóc tài sản, cố sức giành dân, chúng cho xây đựng rất nhiều đồn bốt, tháp canh.

Ở Nam Bộ, trong năm 1948 Pháp đã xây dựng được 2.000 tháp canh. Trên các tuyến đường giao thông quan trọng, cứ từ 1 - 2 khi lại có 1 tháp canh.

Ở Bắc Bộ, Pháp xây dựng các cứ điểm nhỏ, với số quân đông hơn trước. Mật độ các cứ điểm cũng tăng lên. Ở Cao - Bắc - Lạng, đầu năm 1948 có 68 vị trí, đến giữa năm đã tăng lên 79 vị trí với số quân chiếm đóng từ 2.500 lên 6.900 tên. Ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Pháp cho xây dựng thêm 100 cứ điểm. Ở Liên khu III, Pháp cũng cho xây dựng thêm 53 cứ điểm, số quân chiếm đóng từ 12.000 lên 25.000 tên 1. Thực dân Pháp còn tăng cường tuyển tính người Việt Nam vào các đội hương dũng (có nơi gọi là lính dõng, thân binh, bảo an binh...) làm nhiệm vụ canh gác, tuần phòng tại các làng xã. Mỗi khi kiểm soát được vùng nào là quân Pháp tiến hành ngay việc bắt tính để tổ chức việc canh gác, dò xét, tuần tra giữ làng xã. Trên thực tế thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn tay sai không đạt được kết quả mong muốn trong việc xây dựng lực lượng hương dũng, do ta tổ chức tốt việc tuyên truyền, vận động thanh niên bỏ trốn. Vì vậy, số hương dũng mỗi tổng chỉ có từ 10 đến 15 người; đa số tỏ thái độ lừng chừng, chỉ trừ một số ít là hung hăng chống phá cách mạng. Song song với việc đẩy mạnh chính sách "Dùng người Việt đánh người Việt", thực dân Pháp tăng cường các hoạt động cướp bóc, vơ vét, thực hiện chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".

Ở miền Tây và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, quân Pháp cho lính đi gặt lúa của dân, tổ chức thu mua thóc gạo. Ở Trung Bộ, địch làm rất quyết liệt việc tập trung lúa và cướp lúa về đồn.

Bằng cách cướp bóc và tập trung lúa, chúng đã thu được một số lượng lúa khá lớn. Riêng tỉnh Khánh Hoà, năm 1949 chúng lấy 6.000 tấn, năm 1950 chúng cướp 80% mùa màng.

Thực dân Pháp đặc biệt chú trọng việc thu thuế. Chúng tiếp tục duy tự chế độ thuế trực thu và thuế gián thu; đồng thời đặt thêm nhiều thứ thuế mới hết sức nặng nề. Ngoài thuế điền thổ là các thứ thuế cư trú, thuế nước, thuế hằng tháng, thuế môn bài, thuế chứng thư, thuế thổ trạch, thuế bưu phí, thuế chợ, thuế sát sinh, thuế xe, thuế xa xỉ, thuế mạt chược, thuế nhà vệ sinh, thuế lấy rác và xử lí đổ rác thải, thuế giữ các súc vật và đồ đạc lưu kho...

Do bị khủng bố, bắt bớ, cướp bóc vơ vét, nhìn chung đời sống nhân dân trong các vùng địch tạm chiếm hết sức khó khăn.

Nếu tính trung bình so với năm 1939, giá sinh hoạt của giới thợ thuyền người Việt Nam cuối năm 1948 đắt hơn 115 lần 1.Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới nhiều hình thức phong phú, hoặc đấu tranh công khai, hoặc bí mật cất giấu thóc gạo, tài sản đưa ra vùng tự do ủng hộ kháng chiến, chống lại chính sách thuế khoá, từng bước làm thất bại âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp.

2- Chủ trương và hoạt động đẩy mạnh kháng chiến của ta sau chiến thắng Việt Bắc

Trước âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp, ngày 15-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng nhằm đánh giá tình hình cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn mới.

a) về chính trị

Đảng và Nhà nước chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí; chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp, phá tan chính quyền bù nhìn và tay sai; củng cố bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung, thống nhất để điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Khẩu hiệu lúc này vẫn là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.

Trong việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, điều quan trọng là phải chấn chỉnh mặt trận dân tộc thống nhất.

Việt Minh và Liên Việt là hai hình thức mặt trận thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhưng từ năm 1948 đã xảy ra tình trạng chồng chéo, không thống nhất hoạt động giữa hai mặt trận. Vì vậy Đảng chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một mặt trận duy nhất, trong đó, Liên Việt là hình thức tổ chức Mặt trận và Việt Minh là bộ phận nòng cốt.

Trong quá trình thực hiện chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt, Trung ương Đảng đã chỉ ra và kịp thời uốn nắn một số khuyết điểm của các địa phương, như có nơi thiên về phát triển Liên Việt, gần như quên củng cố Việt Minh; có nơi lại chú trọng củng cố Việt Minh, không quan tâm phát triển Liên Việt; có nơi không lấy nguyên tắc hành động chung giữa Việt Minh và Liên Việt làm điểm trọng yếu trong việc chuẩn bị thống nhất.

Nhằm tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, các tổ chức quần chúng cũng được kiện toàn và phát triển một bước.

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã mở rộng thêm đội ngũ.

Những ngành có nghề chuyên môn và có đội ngũ công đoàn viên đông đảo (Ngành Giáo dục, Ngành Bưu điện...) được tổ chức theo hệ thống dọc từ cơ sở lên đến toàn quốc. Hoạt động công đoàn các cấp được đẩy mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc động viên và tổ chức công nhân thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống.

Nhờ đó, số lượng đoàn viên trong các tổ chức Công đoàn ngày càng tăng. Tính đến năm 1948, ở vùng tự do, số đoàn viên Công đoàn đã chiếm 49ơ/o tổng số công nhân. Số công nhân trong vùng địch tạm chiếm gia nhập công đoàn cũng lên tới 37.436

đoàn viên trong tổng số 352.069 công nhân (gần 1l%).

Hội Nông dân cứu quốc phát triển nhanh chóng. Đến năm 1948, Hội có hơn 820.000 hội viên. Nhằm đẩy mạnh cuộc vận động và tổ chức nông dân tham gia kháng chiến, Hội nghị cán bộ Nông dân cứu quốc toàn quốc họp tại Việt Bắc (từ 28-11 đến 7-12-1949) đã đề ra nhiệm vụ, phương hướng hoạt động trong thời gian trước mắt là tăng gia sản xuất tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, giảm tức, thanh toán nạn mù chữ. Hội nghị đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử vận động nông dân ở nước ta.

Công tác vận động và tổ chức phụ nữ được thực hiện theo hướng đơn giản tổ chức và thống nhất lực lượng phụ nữ. Hội Phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ được thống nhất thành một tổ chức để làm tốt vai trò giáo dục, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng và giải phóng phụ nữ.

Đến năm 1948, đoàn thể phụ nữ có 1.210.000 hội viên, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các giới. Đáng chú ý là Hội Mẹ chiến sĩ cũng hăng hái tham gia thi đua yêu nước, nhất là trong các phong trào "góp quỹ nuôi quân", chăm sóc thương binh, bệnh binh, may vá quần áo cho bộ đội.

Công tác vận động thanh niên được đặc biệt coi trọng. Từ năm 1947 trở đi, các tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam, Tổng hội Sinh viên Việt Nam được củng cố và lần lượt mở đại hội.

Ngày 7-2-1950, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đoàn Thanh niên Cứu quốc được tổ chức tại Đại Từ (Thái Nguyên). Đại hội đánh dấu bước trưởng thành của phong trào thanh niên cứu quốc Việt Nam. Tiếp theo Đại hội Đoàn Thanh niên cứu quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Liên đoàn Thanh niên Việt Nam cũng được triệu tập. Đại hội tượng trưng cho khối đoàn kết thống nhất của thanh niên Việt Nam, đồng thời đặt cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng và hành động trong thanh niên, xác định rõ nhiệm vụ của thanh niên trong giai đoạn phát triển mới của kháng chiến.

Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội cũng được xác định rõ về tổ chức và phạm vi hoạt động vào các tầng lớp tư sản, trí thức, tiểu tư sản lớp trên. Công tác vận động quần chúng trong vùng địch tạm chiếm, vùng công giáo và miền núi được đẩy mạnh, góp phần phá tan âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của kẻ thù.

Việc củng cố và kiện toàn bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân được Đảng và Chính phủ quan tâm đặc biệt. Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng (15 - 17-l-1948) nhấn mạnh: Cần phải đề cao danh nghĩa và uy tín của Chính phủ Trung ương cũng như Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Muốn vậy, Chính phủ và Uỷ ban kháng chiến hành chính phải chú ý cải thiện đời sống cho dân, phục vụ nhân dân.

Bộ máy hành chính Trung ương không ngừng được củng cố và kiện toàn. Ngay từ năm 1947, một bộ phận nhân sĩ, trí thức, những nhà văn hoá, văn nghệ nổi tiếng xuất sắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia giữ những cương vị chủ chốt trong Chính phủ. Bản quy chế công chức mới cũng được Hội đồng Chính phủ thông qua (27-5-1948) thay chế độ công chức thời thuộc Pháp.

Cuộc kháng chiến ngày càng gay go, giao thông liên lạc giữa Trung ương với các địa phương và giữa các vùng ngày càng khó khăn, trở ngại. Trong hoàn cảnh ấy, việc kiểm tra các cấp chính quyền thi hành đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ phải được tiến hành chặt chẽ và thống nhất trong toàn quốc. Vì vậy, ngày 18-12-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 138/B-SL quy định bãi bỏ Ban Thanh tra đặc biệt và thành lập Ban Thanh tra Chính phủ với nhiệm vụ xem xét việc thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ, thanh tra các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết, thanh tra sự khiếu nại của dân. Từ đó trở đi, công tác thanh tra được tiến hành thường xuyên, giúp các địa phương thực hiện đúng các đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ, kịp thời sửa chữa, khắc phục sai lầm, khuyết điểm. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành chuyên môn trong bộ máy Nhà nước, ngày 25-1-1949, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập 4 ban lớn, thực hiện liên thông hoạt động giữa các Bộ. Đó là Ban Quân sự (gồm Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tư lệnh); Ban Nội chính (gồm Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao); Ban Kinh tế (gồm Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính, Bộ Canh nông, Bộ Lao động); Ban Văn hoá xã hội (gồm Bộ Giáo dục, BỘ Y tế, Bộ Thương binh, Cứu tế).

Đây là một giải pháp sáng tạo và cực kì quan trọng, nhằm tạo ra cơ chế vận hành vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, có tác dụng phát huy cao độ hiệu suốt công tác của chính quyền kháng chiến.

Cùng với việc củng cố, kiện toàn chính quyền Trung ương, Đảng, Chính phủ cũng đề ra và thực hiện nhiều chủ trương biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền các cấp ở địa phương. Trong điều kiện chiến tranh gây nên sự chia cắt đất nước và các địa phương, Chính phủ sớm quy định quyền hạn của chính quyền các cấp cho phù hợp với tình hình giao thông liên lạc bị cách trở. Theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương, tất cả các Uỷ ban kháng chiến hành chính từ cấp xã đến cấp Liên khu đều phải đảm đương trách nhiệm nặng nề là thay mặt Chính phủ lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến, kiến quốc trong phạm vi địa phương mình phụ trách; đồng thời phối hợp với các địa phương khác để tiến hành cuộc chiến đấu có hiệu quả nhất.

Ngoài những nhiệm vụ chung, Uỷ ban kháng chiến hành chính cấp Liên khu còn được trao thêm một số quyền hạn đặc biệt, như quyền thiết quân luật trưng thu, trưng dụng, trưng tập lực lượng vũ trang, thiết lập toà án quân sự, quyền ân xá, ân giảm, quyền quyết định các kế hoạch kháng chiến, huy động lương thực, thực phẩm cho chiến trường trong phạm vi địa phương mình.

Những nghị quyết của Đảng và sắc lệnh, nghị định của Chính phủ , đặc biệt là Sắc lệnh số 254/SL (19-11-1948) quy định chế độ tổ chức chính quyền nhân dân địa phương trong thời kì kháng chiến là những cơ sở quan trọng trong việc củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp. Các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân phải tạm hoãn trong năm đầu kháng chiến toàn quốc thì đến năm 1948 đã tiến hành trở lại. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân khoá II (1948 - 1949) được tiến hành trong khắp các vùng tự do và nhiều nơi trọng vùng tạm bị địch chiếm. Thành phần công nhân, nông dân tham gia chính quyền được tăng cường. Những đại biểu, những uỷ viên xứng đáng được thay thế những người yếu kém. Các Ngành Công an, Kinh tế, Tư pháp, Giáo dục...

được tăng cường cán bộ có năng lực.

Nam Bộ là nơi sớm bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, nên việc xây dựng chính quyền ở đây gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong những năm 1947

- 1948, Chính phủ đã cử nhiều cán bộ vào bổ sung cho Nam Bộ.

1948, lần đầu tiên Nam Bộ tiến hành cuộc bầu cử Hội đồng nhận dân từ cấp xã đến cấp tỉnh.

Từ năm 1950, bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân tiếp tục được củng cố và kiện toàn theo hướng thống nhất, tập trung, mạnh mẽ, quyết đoán có khả năng đảm đương được nhiệm vụ điều khiển chiến tranh và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.

Để chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy chính quyền, tháng 2- 1950, Hội nghị kháng chiến hành chính được tổ chức, gồm đại biểu ba miền Bắc, Trung, Nam. Bản Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được áp dụng theo Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 20-5-1950. Đây là một bước tiến khá lớn về công tác hành chính.

Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp cơ sở được quan tâm đặc biệt. Từ năm 1948, để củng cố và kiện toàn cấp xã, vấn đề đào tạo cán bộ địa phương đã được đặt ra. Nhiều lớp huấn luyện ngắn hạn (8 đến 20 ngày) đã được tổ chức để bồi dưỡng cho cán bộ xã. Cán bộ từ cấp huyện trở lên thì được rèn luyện trong công tác hằng ngày hoặc được bổ túc trong các lớp dài hạn (3 tháng). Từ năm 1949 - 1950, khắp các khu đều mở lớp "bổ túc cấp xã". Các cuộc thi đua "xây dựng xã" được đặc biệt khuyến khích.

Một trong những biện pháp nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân trong kháng chiến chống Pháp là tăng cường vai trò của Ngành Tư pháp và Toà án nhân dân.

Ngày 28-5-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 11/SL tiếp tục bổ sung các sắc lệnh trước đây, khẳng định thẩm quyền của Toà án nhân dân. Hệ thống Toà án nhân dân gồm có Ban Tư pháp xã, Toà án sơ cấp Toà án đệ nhị cấp và Toà án thượng thẩm. Ngoài hệ thống Toà án nhân dân, Toà án binh (thành lập ngày 23- 81946) cũng được quy định bổ sung về chức năng và nhiệm vụ.

Ngày 25-4-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 45/SL thành lập Toà án binh tối cao để xét xử những quân nhân từ cấp trung đoàn hoặc những quân nhân làm việc ở cơ quan Trung ương phạm pháp.

Hoạt động của hệ thống tư pháp, toà án trong những năm 1948 - 1950 đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững trật tự trị an, trấn áp lực lượng phản động, bảo vệ tài sản quốc gia, tính mạng và tài sản nhân dân.

Trong quá trình củng cố, kiện toàn hệ thống chính quyền các cấp, Đảng, Chính phủ và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, bồi dưỡng nếp sống, đạo đức, nhân cách văn hoá của cán bộ công nhân viên. Coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "có cán bộ tốt, việc gì cũng xong", ngay trong lúc chiến tranh diễn ra ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một loạt tác phẩm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc về công tác cán bộ trong điều kiện của một đảng cầm quyền, như Cán bộ tốt và cán bộ xoàng (6-1947), Thư gửi các nhân viên cơ quan Chính phủ (6- 1947), Cán bộ và đời sống mới (7-1947) và nhất là cuốn Sửa đổi lối làm việc (10-1947). Cuốn sách nêu rõ nhiệm vụ, vai trò, tư cách đạo đức, trách nhiệm và hướng phấn đấu của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước trong điều kiện vừa kháng chiến, vừa xây dựng đất nước và xây dựng con người mới. Những điều Hồ Chí Minh nêu trong cuốn sách về lề lối làm việc nói riêng và nhân cách; đạo đức cán bộ công nhân viên nói chung để trở thành nguyên lí trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Nhà nước ta. Những tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, óc bè phái: quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lại bàn giấy, vô kỉ luật, ích kỉ...

từng bước được khắc phục.

Công tác xây dựng Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và củng cố hậu phương, đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện. Vì vậy, nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, bồi dưỡng năng lực lãnh đạo của cấp uỷ và kiện toàn tổ chức Đảng theo phương châm "phát triển đi đôi với củng cố" thường xuyên được thực hiện.

Từ năm 1948 trở đi, công tác xây dựng Đảng có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng. Năm 1946 cả nước mới có 2 vạn đảng viên đến tháng 9-1948 đã tăng lên hơn 15 vạn và sang đầu năm 1950 là 43 vạn, trong đó thành phần công nhân chiếm 8,7%. Trong quân đội, số đảng viên cũng chiếm 1/3 quân số. Số chi bộ Đảng tăng lên nhanh chóng, từ 3.800 chi bộ (năm 1947), đã tăng lên 7.800 chi bộ (năm 1948). Đến đầu năm 1950, hầu hết các vùng địch tạm chiếm cũng như vùng tự do đều có chi bộ, phần lớn các thôn đều có tổ Đảng. Đông đảo công nhân, nông dân, trí thức cách mạng và chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú được gia nhập Đảng.

Đi đôi với công tác phát triển Đảng, việc giáo dục, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đảng viên nhìn chung được các cấp uỷ Đảng quan tâm. Trong 5 tháng đầu năm 1948, riêng Liên khu III mở được 674 lớp bồi dưỡng cho 19.653 đảng viên mới, 105 lớp bồi dưỡng cho 2.785 chi uỷ viên, 32 lớp bồi dưỡng cho 1.067

huyện uỷ viên... 1.Qua các lớp học, cán bộ, đảng viên được bồi dưỡng về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh...

Nhằm phát huy tính năng động của cơ sở và ứng phó kịp thời với tình thế, Đảng chủ trương xây dựng Chi bộ tự động công tác, coi đó là biện pháp chủ yếu để củng cố cơ sở Đảng. Đến cuối năm 1949, toàn miền Bắc có 1.000 chi bộ tự động công tác; trong đó có nhiều chi bộ kiểu mẫu, điển hình là các chi bộ Thượng Bằng La (Yên Bái), Đình Bảng (Bắc Ninh), Cự Nẫm và Cảnh Dương (Quảng Bình)... Tuy nhiên trên phạm vi toàn quốc, số chi bộ có năng lực tự động công tác còn ít, mới chiếm 25% tổng số chi bộ (tính đến năm 1950) 2.

Nhìn chung, qua chiến đấu và xây dựng, Đảng ta ngày càng vững mạnh; sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, Đảng cũng phạm một số sai lầm, khuyết điểm, nặng về phát triển số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng đảng viên.

Nhằm khắc phục thiếu sót này, từ tháng 9-1950, Đảng tạm ngừng phát triển để củng cố tổ chức.

b) Về quân sự

Với đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng ta chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: Dân quân, du kích là lực lượng đông đảo nhất, tiếp đó là bộ đội địa phương và trên cùng là bộ đội chủ lực.

Dân quân, du kích là lực lượng chủ yếu quyết định sự phát triển mạnh mẽ của phong trào chiến tranh du kích trong cả nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Du kích là một lực lượng cực kì to lớn trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Sức du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất định thắng lợi. Tổ chức chặt chẽ và rộng khắp, trong vùng địch và xung quanh vùng địch, làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích thì nó thành một tấm lưới sắt, một thứ "thiên la địa võng" mà địch không tài gì thoát ra được. Địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Địch làm gì cũng bị phá hoại. Du kích làm cho địch có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, có chân cũng như què. Một bộ phận địch thì bị du kích tỉa dần, tỉa mòn. Bộ phận địch còn sống sót, thì ăn không yên, ở không yên, nghe gió thổi chim kêu cũng hoảng sợ, rồi cũng bị du kích tiêu diệt nốt" 1.

Tháng 2-1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân Việt Nam từ 1 8 tuổi đến 45 tuổi vào dấn quân và quy định: Dân quân, tự vệ có nhiệm vụ canh gác phòng gian trong địa phương, vận tải, tiếp tế, tải thương giúp đỡ du kích địa phương. Du kích địa phương có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ làng 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập VI. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, tr. 335

mạc, tài sản, tính mạng của nhân dân, độc lập tác chiến hoặc phối hợp với bộ đội.Thực hiện chủ trương của Đảng, từ mùa hè năm 1947 trở đi, hàng chục vạn người hăng hái gia nhập các đơn vị dân quân, du kích và tự vệ chiến đấu. Cuối năm 1947, trên nhiều địa phương, ở xã có từ 1 đến 2 trung đội dân quân tự vệ, huyện có từ 1 đến 2 trung đội du kích và tỉnh có từ 1 đến 2

đại đội du kích thoát li sản xuất. Tại một số vùng bị địch tạm chiếm vẫn duy trì các đội công tác đặc biệt hoạt động bí mật.

Đến cuối năm 1949, số dân quân, du kích trong cả nước đã có khoảng một triệu người, trong đó có hàng ngàn lão du kích được gọi là Bạch đầu quân. Trang bị của dân quân tự vệ, du kích còn thiếu thốn và thô sơ Vũ khí, trang bị tự chế là chính, gồm mìn, lựu đạn, súng kíp, cung nỏ, giáo, mã tấu, kiếm; một số nơi có súng trường. Về sau, với phong trào "cướp vũ khí địch đánh địch", trang bị của dân quân, du kích có phần khá hơn.

Việc huấn luyện dân quân, du kích ngày càng đi vào nền nếp.

Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ, chế độ huấn luyện thường kì cho dân quân, du kích được duy trì.

Chương trình học về chính trị là những bài sơ giản về cách mạng, kháng chiến, các quy định về kỉ luật phòng gian giữ bí mật; về quân sự là những bài tập chiến thuật cá nhân, tập kích, phục kích, báo động sẵn sàng chiến đấu...

Trước yêu cáu mới của kháng chiến, cùng với việc phát triển dân quân, du kích, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương xây dựng lực lượng bộ đội địa phương. Đây là lực lượng vũ trang trực thuộc các khu tỉnh huyện, được chính quyền địa phương xây dựng làm công cụ chủ chết bảo vệ địa bàn của mình. Ngày 7-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Sắc lệnh quy định: "Quân đội Quốc gia Việt Nam gồm có hai phần: Quân đội chính quy và quân đội địa phương. Bộ đội địa phương có ba đặc điểm chính là: có tính cách địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, tự trang bị và tự túc về cấp dưỡng" 1.Thực hiện sắc lệnh của Chính phủ, ngày 7-7-1949, Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra Nghị định số l03fNQ quy định tổ chức bộ đội địa phương và Thông tư số 46/TT quy định nhiệm vụ của cơ quan các cấp, các ngành đối với việc xây dựng bộ đội địa phương. Theo tinh thần đó, các đơn vị du kích tập trung được nâng thành các trung đội, đại đội bộ đội địa phương ở huyện và các tiểu đoàn bộ đội địa phương ở tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương. Tính đến cuối năm 1949, từ Liên khu IV trở ra, lực lượng bộ đội địa phương đã lên tới 20.000 người; đến năm 1950, tăng lên 45.000 người. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đến đầu năm 1950, mỗi huyện có từ một đến hai đại đội bộ đội địa phương.

Bộ đội địa phương ra đời và phát triển đã từng bước thay thế các đại đội độc lập, làm nòng cốt cho chiến tranh du kích ở địa phương. Bộ đội chủ lực được Đảng và Chính phủ chủ trương xây dựng từ khá sớm, vì đó là lực lượng quyết định số phận quân đội viễn chinh của thực dân Pháp. Ngày 26-8-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 76/SL thành lập Đại đoàn Độc lập (thực tế tương đương cấp trung đoàn). Đầu năm 1948, thực hiện chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, cùng với việc phát triển mạnh lực lượng dân quân, du kích, từ Liên khu IV trở ra, hơn 1/3 bộ đội chủ lực (l03/299 đại đội) phân tán thành các đại đội độc lập, đội vũ trang tuyên truyền, đội xung phong công tác.

Những đơn vị này có nhiệm vụ đi sâu vào vùng địch tạm chiếm, bí mật gây dựng cơ sở, hướng dẫn quần chúng đấu tranh, tiến hành vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian, gây crựng Và mở rộng phong trào du kích địa phương.

Hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ và đầy nguy hiểm, cán bộ, đảng viên và chiến sĩ ta đã nêu cao ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Có những cán bộ hoạt động ở vùng Tây Nguyên đã tự động cởi trần, đóng khố, cà răng căng tai, phơi nắng cho da đen, học hỏi phong tục tập quán, tìm hiểu nguyện vọng của dân để hoà nhập với dân. Đó là những chiến sĩ kiểu mẫu của dân tộc, những người con xứng đáng của Đảng, rất dũng cảm, tận tuỵ, bất kì gian lao nguy hiểm thế nào, vẫn cứ đi sát với dân, vẫn cứ bám lấy công việc, không nhút nhát, không than phiền, hi sinh cả tính mạng cũng không tiếc.

Từ giữa năm 1949 đến đầu năm 1950, các đại đôi độc lập được rút về cùng với các tiểu đoàn tập trung để xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Từ Liên khu IV trở ra, mỗi Liên khu đã xây dựng được từ 2 đến 3 trung đoàn chủ lực. Ở Nam Bộ, mỗi khu có một trung đoàn. Tính chung cả nước, đến năm 1950 có 12 trung đoàn chủ lực. Ngày 28-8-1949, đại đoàn (sau gọi là sư đoàn) chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, mang tên Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân tiên phong), được thành lập, đánh dấu bước xây dựng hoàn chỉnh lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp đến, Đại đoàn 304 ra đời ngày 10-3- 1950, Đại đoàn 312 thành lập ngày 27-12-1950...

Bộ Tổng tư lệnh cũng quyết định thành lập Cục Pháo binh (5- 1949), Cục Thông tin trên lạc (31-7-1949).

Cùng với sự lớn mạnh về tổ chức, lực lượng vũ trang (nhất là bộ đội chủ lực) từng bước trưởng thành về chính trị, quân sự và hậu cần. Sức chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân được nâng cao rõ rệt qua thực tiễn chiến đấu.

Từ cuối năm 1948, thực hiện chủ trương tổng phá tề, xoá bỏ chính quyền địch ở cớ sở, lực lượng du kích cùng nhân dân vùng tạm bị địch chiếm nổi dậy phá tề trên phạm vi rộng lớn, lập lại chính quyền kháng chiến. Kết quả phá tề đã làm tan rã và tê liệt một phần lớn bộ máy chính quyền tay sai của Pháp ở thôn xã trong vùng địch tạm chiếm. Những hội tề còn lại rất hoang mang, dao động. Ở nhiều nơi, hội tề tỏ ra bất lực, không dám thi hành các mệnh lệnh của thực dân Pháp. Tổng phá tề thực chất là những cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân ở vùng tạm bị địch chiếm, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp uỷ Đảng, nhằm phá tan hệ thống kìm kẹp và chống lại có hiệu quả chính sách dùng người Việt đánh người Việt của địch.

Phong trào chiến tranh du kích diễn ra rất phong phú. Du kích và nhân dân đánh giặc bằng mọi phương tiện, bằng mọi vũ khí và dưới nhiều hình thức, tiêu hao lực lượng địch, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta.

Trong hai năm 1949, 1950, chiến tranh du kích ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Sự phát triển mạnh mẽ của chiến tranh du kích cùng với các cơ sở chính trị đã dẫn đến sự hình thành làng chiến đấu, khu chiến đấu. Phong trào xây đựng làng chiến đấu phát triển rất mạnh. Đến cuối năm 1948, trên địa bàn Liên khu III có 480 làng chiến đấu1. Có những làng chiến đấu, khu chiến đấu đã đương đầu có hiệu quả với nhiều cuộc càn phá ác liệt của địch, tiêu biểu là Cự Nẫm, Cảnh Dương, Hưng Đạo (Quảng Bình), Ái Quốc (Hải Dương), Vật Lại (Sơn Tây), Chi Lăng (Lạng Sơn), Xi Tơ (Tây Nguyên), Điện Tiến (Quảng Nam)... Một số nơi ở Nam Bộ xây dựng được địa đạo toàn thôn, toàn xã. Nhiều nơi xây dựng được căn cứ tỉnh, huyện, như căn cứ Lang Tài ở Bắc Ninh, Kinh Môn ở Quảng Ninh (sau thuộc Hải Dương), v.v...

Phong trào du kích chống chính sách bình định của địch, phục hồi và phát triển cơ sở kháng chiến của quân và dân ta là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, có nhiều tổn thất hi sinh.

Song, qua cuộc đấu tranh gian khổ, quân và dân ta có nhiều kinh nghiệm và sáng tạo, đã vượt qua mọi trở ngại, đưa chiến tranh du kích ngày một lớn mạnh, mang tính chất quần chúng rộng rãi, trở thành một phương thức tiến công chiến lược của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam . Trong vùng tạm bị địch chiếm, nhân dân ta đứng lên đấu tranh chống địch dưới nhiều hình thức phong phú. Ở nông thôn, phong trào chống thu thóc, chống nộp thuế, chống đi phu, bắt lính, chống khủng bố. . . diễn ra sôi nổi . Những nơi có phong trào mạnh, nhân dân và lực lượng vũ trang tiến hành phá tề, trừ gian, làm công tác địch vận, bao vây đồn bốt, không hợp tác với địch, phát triển chiến tranh du kích. Bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, dân quân, du kích và nhân dân đánh giặc ở mọi lúc, mọi nơi và với nhiều loại vũ khí; có khi chỉ bằng tay không, dùng mưu bắt sống địch, cướp súng. Hoạt động du kích thiên biến vạn hoá đã được nhân dân ta thực hiện một cách sinh động trên khắp các chiến trường.

Ở các thành phố, thị xã, quần chúng cũng tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, vạch mặt, phản đối các tổ chức "hội đồng an dân", "hội đồng chấp chính" làm tay sai cho Pháp; ở một số nơi, ta còn bắt sống hay trừng trị những tên tay sai đắc lực của Pháp.

Song song với việc phát triển chiến tranh du kích, coi du kích chiến là chính, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương còn tranh thủ đánh vận động. Từ năm 1948 trở đi, vận động chiến được đẩy mạnh dần và trong những năm sau trở thành hình thức tác chiến tương đối phổ biến của quân đội ta.

Nhìn chung từ năm 1948 đến năm 1950, quân đội ta đã mở hàng chục chiến dịch đánh vận động quy mô nhỏ trên chiến trường toàn quốc. Điển hình là các chiến dịch: Nghĩa Lộ (3- 1948), Yên Bình Xã (6-1948), Đường số 3 (7-1948), Đông Bắc (10-1948), Sông Đà (l-1949), Sông Thao (5-1949), Chiến dịch Hồ Chí Minh ở Tây Nguyên (6-1949), Lê Lợi, Lê Lai (ll-1949) ở Quảng Trị và Quảng Bình, v.v... Từ các trận đánh lẻ với binh lực sử dụng phô biến là đại đội, quân đội ta tiến lên đánh tập trung ở quy mô tiểu đoàn; có những chiến dịch sử dụng từ 2 đến 4-5 trung đoàn trên một địa bàn rộng. Đó là một bước tiến của quân đội ta trên con đường từ du kích chiến lên vận động chiến, từ chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Phối hợp với đấu tranh vũ trang, ở các đô thị bị địch chiếm đóng, phong trào đấu tranh chính trị cũng diễn ra mạnh mẽ.

Ngày 9-1-1950, khoảng 3.000 học sinh, sinh viên Sài Gòn biểu tình đòi trả tự do cho 12 học sinh bị bắt trong cuộc bãi khoá xảy ra hồi cuối năm 1949. Cuộc biểu tình được hàng vạn đồng bào các giới nhiệt liệt hưởng ứng. Giặc Pháp cho 500 lính và cảnh sát khủng bố dã man. Học sinh Trần Văn Ơn bị giết hại.

Tin đó làm cho quần chúng căm phẫn và ngày 12-1-1950, toàn thành phố Sài Gòn tổng bãi công, bãi thị. Hơn nửa triệu người tham gia đưa tang Trần Văn Ơn. Tiếp đó, tại Chợ Lớn lại nổ ra cuộc biểu tình phản đối định sát hại nữ sinh Trần Bội Cơ.

Giữa những ngày sục sôi khí thế chiến đấu của đồng bào ta, đế quốc Mĩ cho hai tàu ngư lôi loại lớn cập bến cảng Sài Gòn.

Một tàu sân bay chở 70 máy bay chiến đấu Mĩ cũng vào thả neo ở ngoài khơi Đà Nẵng. Đế quốc Mĩ âm mưu mở cuộc thao diễn lớn của không quân và hải quân, phô trương lực lượng hòng trấn áp tinh thần đấu tranh của đồng bào ta, đồng thời cổ vũ tinh thần cho bè lũ tay sai.

Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương phát động một cuộc đấu tranh lớn. Ngày 19-3-1950, hơn 300.000 đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường biểu tình, đấu tranh trực diện với đế quốc Mĩ, buộc tàu Mĩ phải vội vã rút chạy.

Tại Hà Nội, từ đầu năm 1950, địch ra sức củng cố, tổ chức lại hệ thống phòng thủ, tăng cường công sự và binh lực, ráo riết lùng sục và khủng bố. Chúng chỉnh đơn lại hệ thống ngụy quyền ở cơ sở, lập thêm Sở công an Bắc Việt bên cạnh Sở mật thám Pháp.

Đảng bộ Hà Nội chủ trương xây dựng và củng cố lực lượng, chống khủng bố, bảo vệ phong trào. Sau sự kiện 9-1-1950 ở Sài Gòn - Chợ Lớn, theo chủ trương của Thành uỷ, học sinh Hà Nội tổ chức đợt đấu tranh kéo dài trong một tuần lễ (từ ngày 13 đến 20- 1). Kết hợp với đấu tranh chính trị, các lực lượng vũ trang cũng đẩy mạnh hoạt động trừ gian diệt ác, đánh phá các cơ sở kinh tế, quân sự của địch. Ờ Sài Gòn, quân và dân ta trong trị tên thực dân cáo già Đờ la Sơvrôchie (De la Chevrotière), trùm mật thám Badanh (Bazin), Bộ trưởng ngụy quyền Vương Văn Nhường. Tại Hà Nội, bộ đội ta tập kích sân bay Bạch Mai (18-l-1950), phá huỷ 22 máy bay, đất cháy 600.000 lít xăng.

c) về kinh tế

Nhiệm vụ của nhân dân ta là phải nỗ lực xây dựng nền kinh tế kháng chiến có tính chất dân chủ nhân dân, có khả năng tự cấp, tự túc, vừa đáp ứng được những nhu cầu của kháng chiến, vừa từng bước cải thiện đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân; đồng thời phải đấu tranh chống lại sự phá hoại của địch.

Kinh tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong thời kì này chú trọng phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.

Ngày 14-5-1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 68/SL về việc thành lập Ban Kinh tế Chính phủ với nhiệm vụ nghiên cứu, khởi thảo, đệ trình Chính phủ những chính sách, chương trình hoặc kế hoạch quan trọng về kinh tế. Ban Kinh tế Chính phủ đã đóng vai trò tham mưu cho Chính phủ trong công cuộc xây dựng kinh tế kháng chiến và kiến quốc.

Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, chủ trương chung của Đảng và Chính phủ là xây dựng nền kinh tế toàn diện. Nhưng do thực trạng kinh tế của đất nước lúc đó và vùng giải phóng chủ yếu ở nông thôn, miền núi, nên nông nghiệp giữ vị trí hàng đầu trong nền kinh tế kháng chiến. Đảng và Nhà nước động viên nông dân, cán bộ, bộ đội thi đua canh tác, đắp đê, chống hạn hán, lũ lụt, cải tiến kĩ thuật, khai hoang, phục hoá; đồng thời đầu tư vốn cho nông dân vay, phân phối giống, tổ chức tổ đổi công, hợp tác giúp nhau sản xuất. Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp đã thu được nhiều kết quả quan trọng.

Để tạo điều kiện cho nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng và Chính phủ chủ trương tiếp tục thi hành chính sách giảm tô, giảm tức và tạm cấp ruộng đất "vắng chủ”, chia lại ruộng đất công cho công bằng, hợp lí.

Chính phủ ban hành một loạt sắc lệnh về ruộng đất: Sắc lệnh số 78/SL (14-7-1949) quy định giảm tô 25% so với mức tô trước Cách mạng tháng Tám, xoá bỏ tô phụ và chế độ quá điền, lập Hội đồng giảm tô cấp tỉnh; Sắc lệnh số 25/SL (13-2-1950) về việc sử dụng ruộng đất vắng chủ; Sắc lệnh số 88/SL quy định thể lệ lĩnh canh ruộng đất và Sắc lệnh 89/SL (22-5-1950) quy định việc giảm lãi, xoá nợ, hoãn nợ đối với những việc vay mượn trước đây... Hội đồng giảm tô, giảm tức, Ban giảm tô, giảm lãi xã được thành lập. Phần lớn ruộng đất do nông dân lĩnh canh đã được giảm tô 25%. Từ năm 1945 đến năm 1949, nông dân đã được chia 177.000 ha ruộng đất, trong đó ruộng đất của thực dân Pháp là 18.400 ha, ruộng đất của địa chủ là 39.600 ha, ruộng đất công và bán công là 19.000 ha. Từ năm 1949, số ruộng đất chia cho nông dân ngày càng nhiều hơn.

Thông qua những chính sách trên đây, chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ bị thu hẹp dần; đời sống nông dân có những chuyển biến đáng kể. Tình hình sở hữu ruộng đất ở nông thôn trong các vùng tự do có sự biến đổi khá lớn.

Song song với việc đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân, Đảng và Nhà nước còn hướng dẫn nông dân từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể dưới những hình thức thích hợp.

Cuối năm 1949, cả nước có 27.291 tổ đổi công và hợp công 1, 982 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1950, cả nước có 25.491 tổ đổi công và hợp công, 1.562 hợp tác xã. Một số biện pháp kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp được áp dụng .

Công tác thuỷ lợi, phòng chống thiên tai, địch hoạ được coi trọng. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 (20-5-1948) đã chỉ rõ: "Không bỏ đất hoang, miền núi phát triển thêm nương rẫy. Miền biển đắp đê những bãi tân bồi, khai ngòi ở những vùng úng thuỷ. Sửa chữa những kênh đào hiện có, đào thêm kênh ở những nơi cần thiết". Thực hiện chủ trương trên, tính chung trong 3 năm (1948 - 1950), các cấp chính quyền địa phương đã huy động 4 triệu ngày công, đào được gần 3 triệu m3

đất để sửa chữa đê điều. Các chương trình đào đắp kênh mương dẫn nước vào ruộng, đào ao, đào giếng, đắp đê ngăn nước mặn, sử dụng máy bơm để chủ động tưới, tiêu nước được áp dụng rộng rãi. Nhờ đó, một số vùng đồi núi, trung du và nhiều diện tích đất hoang hoá được đưa vào canh tác. Nhiều diện tích cấy một vụ lúa đã tăng lên hai vụ trong năm, diện tích trồng hoa màu cũng được mở rộng. Trong năm 1949, Liên khu IV và Đồng Tháp Mười phục hoá được 70.313 ha, vùng hữu ngạn sông Hồng khai khẩn được 10.000 mẫu ruộng ở vùng bán sơn địa. So với năm 1949, trong năm 1950, Liên khu Việt Bắc sản xuất thêm được 45.000 tấn lúa và 192.000 tấn hoa màu.

Công tác bảo vệ sản xuất được chú ý. Các tỉnh đều thành lập Ban bảo vệ mùa màng dân - quân - chính ở những nơi cần thiết.

Một số địa phương thuộc Liên khu III, IV, V và Nam Bộ đã phổ biến cho nông dân kinh nghiệm "gặt hái xung phong", phân tán và cất giấu trâu bò, thóc lúa, có tác dụng giảm bớt sự thiệt hại do địch phá hoại. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước rất chú trọng xây dựng và phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, tài chính.

Trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, công nhân đã di chuyển máy móc, vật tư, nguyên liệu ra các vùng tự do, các khu căn cứ. Đó là vốn vật chất đầu tiên để xây dựng nền công nghiệp kháng chiến. Những xí nghiệp quốc phòng và dân dụng có quy mô thích hợp đã được xây dựng trong các vùng tự do và vùng căn cứ địa. Công nghiệp quốc phòng là bộ phận quan trọng nhất trong thời kì kháng chiến. Đến cuối năm 1947, công nghiệp quốc phòng nước ta đã có hàng loạt nhà máy, xí nghiệp thuộc quyền quản lí của Cục Quân giới Bộ Quốc phòng và Ban vũ khí dân quân, Công an, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Công đoàn các khu, tỉnh. Cục Quân giới quản lí 89 xưởng, 12 công trường. Đến năm 1950, ngành công nghiệp quốc phòng có 150 nhà máy, công xưởng và hàng trăm công trường hoặc tổ vũ khí, với 25.000 công nhân. Trong các xưởng quân giới, cán bộ và công nhân nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tự sáng chế được nhiều loại vũ khí và đạn dược. Chỉ tính từ năm 1946 đến năm 1950, các xưởng quân giới từ Liên khu IV trở ra đã sản xuất được 1.323 tấn vũ khí, đạn dược các loại; trong đó có kiểu súng cối các cỡ 60 mm, 120 mm, súng SKZ...

Nhịp độ sản xuất trong các xưởng quân giới rất nhanh. Nếu như năm 1946, các xưởng sản xuất được 100 tấn vũ khí, đạn dược, thì năm 1947 là 707; năm 1948 là 1.044 và năm 1949 là 3.544.

Các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phục vụ dân sinh như dệt, giấy, diêm, xà phòng, đồ gốm, chè, đường... cũng được xây dựng và phát triển. Ở Bắc Bộ, nhiều tỉnh mở rộng diện tích trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt vải, đáp ứng một phần nhu cầu về mặc cho bộ đội và nhân dân. Đặc biệt, Liên khu V đã tự túc gần như hoàn toàn nhu cầu về mặc cho bộ đội và nhân dân.

Ở Nam Bộ, các xưởng dệt thủ công bước đầu được thành lập.

Những xưởng dệt lớn có tới vài trăm công nhân, chủ yếu may quần áo cho bộ đội; xưởng nhỏ có từ 50 đến 100 công nhân, sản xuất các loại vải phục vụ cho quốc phòng và nhân dân.

Trong kháng chiến, nghề giấy phát triển mạnh ở nhiều nơi do nhu cầu giấy rất lớn. Ở Trung ương có các cơ sở sản xuất giấy quy mô lớn đáng chú ý có Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Nhà máy giấy Việt Nam, Xưởng sản xuất bột giấy Hoàn Kiếm... Đặc biệt, Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đã sản xuất được các loại giấy dó rất dai, dùng để in tem và cung cấp cho Bộ Tài chính in tiền. Ở mỗi liên khu cũng có nhiều xưởng nhỏ, sản xuất giấy cung cấp cho học sinh, các cơ quan, báo chí và xuất bản.

Nghề làm đường cũng phát triển khá nhanh. Năm 1948, ở Liên khu Việt Bắc chưa có cơ sở sản xuất đường, nhưng đến năm 1949 đã xây dựng được rất nhiều lò đường, mỗi năm sản xuất được 1.110 tạ.

Ở Nam Bộ có 233 lò sản xuất đường, cung cấp đủ nhu cầu của nhân dân trong vùng tự do.

Ngoài các ngành dệt, giấy, đường, các nghề làm xà phòng, muối, nước mắm, đồ dùng thuỷ tinh, nông cụ ... được khuyến khích phát triển. Chính phủ không chỉ cho vay vốn, mà còn cử cán bộ kĩ thuật xuống các địa phương tìm hiểu tình hình và hỗ trợ kĩ thuật cho các cơ sở sản xuất, tạo điều kiện về nguyên, vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.

Ngành công nghiệp khai khoáng được coi trọng. Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, một số mỏ ở vùng chiến khu do Pháp khai thác trước đây đã tiếp tục hoạt động trở lại.

Các mỏ than Phấn Mễ (Thái Nguyên), Minh Khai (Tuyên Quang), Đầm Bùn, Khe Bố (Nghệ An) là những mỏ đầu tiên được coi là doanh nghiệp Nhà nước. Một số mỏ kim loại cũng được khai thác (mỏ thiếc Tĩnh Túc - Cao Bằng, mỏ ăngtimoan Tân Trào - Tuyên Quang, mỏ crôm Thanh Hoá, vàng Bồng Miêu - Quảng Nam...), v.v...

Những cố gắng và kết quả đạt được của quân và dân ta trong xây dựng và phát triển kinh tế kháng chiến tự cấp tự túc là hết sức to lớn. Sản xuất nông nghiệp trong những năm 1948 - 1950

tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng được Đảng và Chính phủ quan tâm giúp đỡ về giống, vốn, cải tiến kĩ thuật, đẩy mạnh khai hoang phục hoá..., nên đã tạo được niềm tin của nhân dân đối với thắng lợi của kháng chiến. Các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã sản xuất được nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Nhiều mặt hàng trước kia phải mua trong vùng Pháp chiếm đóng, đến nay đã tự sản xuất được, làm thất bại âm mưu phong toả kinh tế của thực dân Pháp. Tuy nhiên, tình hình nhiều lúc, nhiều nơi vẫn còn gặp khó khăn nghiêm trọng, nhất là ở những vùng núi xa xôi hẻo lánh, hoặc ở những vùng có chiến sự ác liệt. Ở nhiều chiến trường (Việt Bắc, Tây Bắc, Bình - Trị - Thiên, Tây Nguyên...), đời sống nhân dân, bộ đội rất kham khổ, thiếu thốn. Nguyên, vật liệu bảo đảm cho sản xuất quốc phòng và một số nhu cầu thiết yếu khác ngày càng khan hiếm.

Để phục vụ cho nhu cầu chiến đấu và sản xuất, ngày 29-2- 1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 410/SL thành lập Cục Tiếp tế vận tải thuộc Bộ Kinh tế trên cơ sở sáp nhập Nha Tiếp tế với các cơ quan phân tán muối. Sau khi thành lập, Cục Tiếp tế vận tải tổ chức 2 chi nhánh ở Liên khu I và Liên khu X; dưới chi nhánh là các chi cục. Các tỉnh cũng thành lập những chi cục do Cục Tiếp tế vận tải trực tiếp chỉ đạo. Ở Nam Bộ, do địa hình kênh rạch, việc giao thông vận tải khó khăn, lại bị quân Pháp phong toả gắt gao, nên ta chủ trương tất cả mọi lực lượng đều tham gia tiếp tế vận tải; các lực lượng vũ trang phải yểm trợ, bảo vệ việc vận chuyển hàng hoá. Đến giữa năm 1949, Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ đã thành lập Ban tiếp tế hàng hải để vận chuyển thóc gạo cho các tỉnh Nam Trung Bộ và chuyển vũ khí, đạn dược, tài liệu sách báo về Nam Bộ.

Theo đà phát triển của kháng chiến, việc củng cố và mở rộng giao thông vận tải ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó, từ giữa năm 1948, việc khôi phục, sửa chữa đường sá bắt đầu được thực hiện và đẩy mạnh trong những năm sau. Riêng trong năm 1948, tính từ Quảng Bình trở ra, nhân dân ta đã sửa chữa được 5.006 km đường bộ, làm được 8.304 mét cầu 1 ở Liên khu IV, cùng với việc nạo vét các kênh đào, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá phục vụ các công binh xưởng miền núi và sự đi lại của nhân dân, ta xây dựng đoạn đường sắt La Khê - Đò Vàng dài 30 km, mở thêm gần 300 km đường xuyên sơn 2. Ở Liên khu V, ngay từ đầu năm 1948, ta bắt đầu khôi phục tuyến đường sắt từ An Tân (Tam Kì, Quảng Nam) đến La Hai (Đồng Xuân, Phú Yên) dài 300 km. Trên cả nước, một hệ thống giao thông thủy, bộ, đã dần dần hình thành, lúc chạy qua hậu phương, khi len lỏi qua vùng địch hậu.

Từ năm 1950, việc mở đường, sửa đường càng trở nên cấp thiết.

Đến cuối năm 1950, các lực lượng giao thông công chính, công binh, thanh niên xung phong và dân công đã sửa chữa xong 1 .046 km đường ô tô 173 km đường cho xe thô sơ ... Liên khu Việt Bắc được Trung ương giao nhiệm vụ gấp rút sửa chữa những con đường lớn hướng ra biên giới.

Từ phá đường để cản bước tiến quân giặc hồi đầu kháng chiến, đến nay lại mở đường để tiến công giặc, điều đó đã phản ánh bước phát triển đi lên của cuộc kháng chiến.

Cùng với nhiệm vụ sửa chữa và làm thêm đường phục vụ mục đích quân sự, nhân dân ta còn sửa chữa và mở thêm nhiều đoạn đường phục vụ phát triển kinh tế. Đến năm 1950, các Liên khu Việt Bắc, Liên khu III và Liên khu IV đã sửa chữa được 4.327 km đường, đào đắp 105.533 m3 đất, sửa và làm lại 3.877

m cầu. Các tuyến đường sắt cũ được khôi phục và đặt thêm những tuyến đường mới ở những nơi có điều kiện thuận lợi.

Việc vận tải trên các tuyến đường thuỷ cũng được khai thác triệt để.

Trong chiến tranh, thông tin liên lạc giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Vì vậy, ngay từ đầu năm 1948, Trung ương Đảng quyết định sáp nhập Ban phân phối tài liệu của Tổng bộ Việt Minh vào Ban giao thông liên lạc Trung ương. Các Ban giao thông ở các khu, tỉnh được bổ sung cán bộ từ huyện uỷ viên trở lên.

Ngành Bưu điện cũng được củng cố. Theo chủ trương của Đảng và Chính phủ, các Nha Bưu điện Bắc Bộ, Bắc phần Trung Bộ và miền Nam được bãi bỏ để thành lập các Liên khu Bưu điện. Đến tháng 5-1948, Bộ Giao thông công chính ra quyết định hợp nhất Ban Giao thông liên lạc Trung ương với Bưu điện thành Nha Bưu điện Việt Nam.

Để đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc ngày càng lớn, theo quyết định của Hội nghị cán bộ giao thông Trung ương (27-5- 1949), ngành Bưu điện được chia thành hai bộ phận: Ban thư tín và Ban hoả tốc. Các đường thư hoả tốc từ Trung ương đến các liên khu, tỉnh, huyện, xã trở thành đường thư chủ yếu chuyển công văn, tài liệu, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đến khắp các vùng trong cả nước. Trên mặt trận văn hoá - giáo dục, cùng với việc xoá bỏ nền văn hoá, giáo dục nô dịch, ngu dân của chế độ thực dân - phong kiến, chúng ta tích cực xây dựng nền văn hoá - giáo dục mới theo ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Mọi hoạt động văn hoá trong kháng chiến đều hướng theo phương châm "kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến".

Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng ( 15- 17-1-1948) đã nêu rõ nhiệm vụ của ngành văn hoá, giáo dục là: "Động viên văn hoá thực sự tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến, đào tạo nhân tài và cán bộ cung cấp cho các ngành kháng chiến" 1

Từ ngày 16 đến 20-7-1948, Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai được triệu tập. Hội nghị đã thông qua bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày. Báo cáo nêu rõ lập trường văn hoá Mác xít, tính chất và nhiệm vụ văn hoá dân tộc dân chủ; phê phán những khuynh hướng và quan điểm văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản; xác định thái độ đúng đắn của những người làm văn hoá kháng chiến. Tiếp đó, Hội Văn hoá Việt Nam được thành lập, tập hợp 1. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1950... Sđd, tr. 277.

đông đảo các nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ, khoa học, giáo dục thành một mặt trận văn hoá kháng chiến.

Cuối tháng 2-1949, Đảng tổ chức Hội nghị cán bộ văn hoá nhằm đẩy mạnh hoạt động văn hoá kháng chiến và xây đựng văn hoá dân tộc, dân chủ nhân dân. Thông qua cuộc đấu tranh tư tưởng, các khuynh hướng văn học nghệ thuật thuần tuý, nghệ thuật vị nghệ thuật bị phê phán, loại trừ. Nhiều tác phẩm văn học gồm đủ các thể loại (tuỳ bút, kịch, thơ, truyện...) và nhiều bài hát, bản nhạc của các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng được sáng tác phục vụ kịp thời công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Một nếp sống lành mạnh, có văn hoá được xây dựng và phát triển ở khắp các vùng tự do. Các tệ nạn xã hội về cơ bản bị xoá bỏ. Tình trạng lãng phí trong hội hè, cúng bái, ma chay, cưới xin giảm bớt khá nhiều.

Về giáo dục, phong trào bình dân học vụ tiếp tục mở rộng.

Đến tháng 6-1950, cả nước có 10.000.000 người thoát nạn mù chữ; trong đó số đông được tiếp tục qua lớp dự bị để củng cố trình độ biết đọc, biết viết. Cùng thời gian này, cả nước có 10

tỉnh, 80 huyện, 1.424 xã, 7.248 thôn, bản đã hoàn thành thanh toán nạn mù chữ. Ở Nam Bộ, dù trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng cũng thanh toán xong nạn mù chữ ở 102 xã. Trong các vùng tự do Liên khu V, hầu như không có thanh niên nào là không biết chữ.

Ngành Giáo dục phổ thông phát triển khá nhanh chóng. Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947, việc dạy và học trong các nhà trường đi dần vào thế ổn định. Từ ngày 10 đến ngày 15- 7-1948, Bộ Giáo dục triệu tập Hội nghị giáo dục toàn quốc tại Việt Bắc. Quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị và chỉ rõ: Muốn xây dựng một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc, phải sửa đổi chương trình giáo dục cho phù hợp với yêu cầu kháng chiến và kiến quốc; phải biên soạn sách, sửa đổi cách dạy học, đào tạo cán bộ ... Từ sau Hội nghị này, ngành Giáo dục đã có những bước chuyển biến về nội dung và phương pháp giảng dạy, học tập. Tháng 2-1950, Bộ Giáo dục triệu tập Hội nghị trù bị về Đề án cải cách giáo dục. Tháng 7-1950, đề án này đã được Hội đồng Chính phủ thông qua, cho thi hành hệ thống trường phổ thông 9 năm và chương trình giảng dạy mới thay thế hệ thống trường phổ thông cũ (12 năm). Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất, xác định rõ bản chất, mục đích, nguyên tắc giáo dục và mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông là giáo dục thế hệ trẻ thành những công dân lao động tương lai có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Số giáo viên và học sinh phổ thông tăng lên rõ rệt. Năm 1945, cả nước có 290.161 học sinh và 3.629 giáo viên; đến năm 1950 đã tăng lên 439.130 học sinh và 11 . 162 giáo viên.

Một số trường đại học và trung học chuyên nghiệp cũng được xây dựng như Đại học Y - Dược (1947), Cao đẳng Giao thông - Công chính (1948), Trung học Giao thông (1948), Trung học Sư phạm (1950).

Công tác y tế được Nhà nước hết sức coi trọng. Từ năm 1948, mạng lưới y tế được củng cố, có hệ thống từ xã đến tỉnh, gồm các trạm cứu thương, trạm xá, phòng phát thuốc, bệnh xá, bệnh viện. Cuộc vận động thực hiện nếp sống vệ sinh được đẩy mạnh. Phong trào "ba sạch" (ăn sạch, uống sạch, ở sạch), "bốn diệt" (diệt ruồi, diệt muỗi, diệt chuột, diệt chấy rận) ngày càng ăn sâu, lan rộng trong quần chúng. Ngoài những hình thức tuyên truyền vệ sinh, như biểu ngữ, nói chuyện, mít tinh, triển lãm..., sở y tế các liên khu còn mở nhiều lớp truyền bá vệ sinh thường thức để huấn luyện số học viên do các xã cử lên. Ở các địa phương, phong trào đào giếng, làm hố xí, tổ chức "Ngày sạch sẽ", tuần "Tổng tẩy uế” được đông đảo nhân dân hưởng ứng góp phần cải thiện một phần bộ mặt nông thôn.

Công tác y tế nông thôn được đẩy mạnh. Ngoài việc thành lập phòng phát thuốc, nhà hộ sinh ở các huyện và ban (hoặc trạm) cứu thương, tải thương ở các xã, từ năm 1949, Viện Bào chế Trung ương còn có sáng kiến sản xuất những tủ thuốc thôn quê để bán cho các xã với giá rẻ. Năm 1950, Bộ Y tế lại cho thành lập Nha y tế thôn quê với nhiệm vụ phổ biến tài liệu truyền bá vệ sinh và y tế hương thôn, đào tạo cán bộ y tế xã và nữ hộ sinh nông thôn, lập tủ thuốc, xây dựng và theo dõi thực hiện phong trào vệ sinh ở nông thôn.

Nhờ có sự quan tâm của các cấp chính quyền, công tác y tế đã thu được nhiều kết quả. Tính đến năm 1950, ở các vùng tự do đã có 6.443 cơ sở y tế nông thôn, 1.670 cơ sở hộ sinh xã với 4.092 cán bộ làm công tác y tế xã, cứu thương, hộ sinh xã. Tại Nam Bộ, mỗi huyện có ban quân - dân y, quân - dân y xá, tổ nha y, tổ hộ sinh, tổ bào chế. Các xã đều có ban y tế, trạm cứu thương, nhà bảo sinh...

d) về ngoại giao

Cùng với việc xây dựng thực lực trong nước, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.

Chính sách ngoại giao của nước Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ là "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” 1.

Theo phương hướng đó, ngoại giao Việt Nam thời kì này bắt đầu thiết lập được các mối liên hệ trực tiếp với một số nước Đông Nam Á, trước hết là Thái Lan và từ đó mở rộng địa bàn tiếp xúc, tuyên truyền quốc tế phát triển ngoại giao nhân dân để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.

Đối với nước Pháp và nhân dân Pháp, Chính phủ và nhân dân Việt Nam vẫn thân thiện và "muốn cộng tác với nhân dân Pháp như anh em trên một căn bản tín nghĩa và bình đẳng" 1.

Từ tháng 12-1946 đến tháng 3-1947, thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp và cả Tổng thống Pháp Vanhxăng Ôriôn (Vincent Auriol), đề nghị "lập lại ngay nền hoà bình đê tránh cho hai nước chúng ta khỏi bị hao người thiệt của, và để gây lại sự cộng tác và tình thân thiện giữa hai dân tộc" 2. Những đề nghị của Chính phủ ta không được Chính phủ Pháp đáp ứng. Ngược lại, thực dân Pháp đã cử Pôn Muýt (Phút Mus) đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 5-1947), ngang ngược đòi ta phải nộp vũ khí cho họ, đòi để cho quân đội thực dân Pháp được đi lại tự do trên khắp đất nước ta.

Đối với các nước châu Á, cùng với việc tăng cường khối liên minh chiến đấu Việt - Miên - Lào, Chính phủ ta tích cực xây dựng quan hệ thân thiện với các nước dựa trên lập trường chống đế quốc thực dân, bảo vệ độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính phủ ta đã tỏ tình đoàn kết ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Inđônêxia, Ấn Độ; duy trì tình hữu nghị với Thái Lan, Mianma... và cử đoàn đại biểu đi dự Hội nghị Liên Á họp ở Niu Đêli (3-1947). Tháng 4-1947, Chính phủ ta đặt cơ quan đại diện tại Băng Cốc (Thái Lan) và được hưởng đặc quyền như một cơ quan ngoại giao. Tranh thủ chính sách của Chính phủ Thái Lan là chống thực dân và ủng hộ cuộc kháng chiến của ta, từ tháng 2-1948 Trung ương Đảng cử 10

cán bộ sang Băng Cốc để tăng cường cho cơ quan đại diện và đặt quan hệ với các đoàn thể quốc tế tại Thái Lan, Trung Quốc và Miến Điện.

Đầu năm 1948, Chính phủ ta lại cử một đoàn cán bộ ngoại giao sang Thái Lan, Mianma, Trung Quốc, Tiệp Khắc để tuyên truyền về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng cử nhiều đoàn đại biểu tham dự các cuộc hội nghị quốc tế như Hội nghị Công đoàn ngành Giầy da ở Tiệp Khắc (6-1949), Hội nghị thuỷ thủ và công nhân bến tàu ở Mácxây (7-1949), Hội nghị thanh niên công nhân thế giới ở Praha, v.v...

Từ cuối năm 1949, cùng với sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến, uy tín của Nhà nước ta được nâng lên. Tình hình quốc tế cũng có những chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi cho ta. Trong bối cảnh ấy, Đảng và Chính phủ chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao để tranh thủ rộng rãi sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng hoà bình, dân chủ thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung quốc hội đàm với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tiếp đó, Người sang Liên Xô hội đàm với Xtalin cùng các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô về những vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến ở Việt Nam.

Chuyến đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tranh thủ thêm sự đoàn kết và viện trợ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến phát triển đi lên.

Ngày 14-1-1950, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới: "Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới" 1.Ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố công nhận nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

Ngày 18-1-1950, Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ngày 30-1-1950, Chính phủ Liên Xô đã công nhận Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong vòng một tháng sau đó nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (Tiệp Khắc, Cộng hoà Dân chủ Đức, Cộng hoà Nhân dân Hunggari, Rumani, Ba Lan, Bungari, Anbani) cũng lần lượt công nhận Chính phủ ta.

Việc các nước xã hội chủ nghĩa công nhận Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao. Thắng lợi đó góp phần nâng cao uy tín và địa vị của Nhà nước ta trên chính trường quốc tế, có ảnh hưởng lớn đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

(Nguồn: Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000 - TS. Nguyễn Xuân Minh)