I- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950

1- Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng

Từ cuối năm 1949 - đầu năm 1950, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi ảnh hưởng thuận lợi đối với cách mạng Việt Nam. Ở châu Âu, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Liên Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 4 với những thành tựu to lớn về kinh tế và quân sự, trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào cách mạng thế giới. Ở châu Á, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (1-10-1949) làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng, đồng thời tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho nước ta tiếp xúc trực tiếp với phe xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, hệ thống xã hội chủ nghĩa được mở rộng và nối liền từ Âu sang Á, tạo chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa thuộc châu Á và châu Phi tiếp tục phát triển mạnh mẽ.

Ở trong nước, từ năm 1948 đến mùa thu năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta liên tiếp giành được thắng lợi lớn về mọi mặt. Phong trào chiến tranh du kích ngày càng lan rộng.

Các đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập tiến sâu vào vùng Pháp chiếm đóng, cùng cán bộ và nhân dân địa phương xây dựng cơ sở kháng chiến. Lực lượng vũ trang ba thứ quân đã được xây dựng hoàn chỉnh, gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong các vùng tạm bị địch chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các thành phố, thị xã.

Việc các nước xã hội chủ nghĩa công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu năm 1950 cùng với những bước phát triển mới của tình hình trong nước và quốc tế đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành vấn đề quốc tế Thực dân Pháp và phe đế quốc lo sợ ảnh hưởng của cách mạng Việt Nam lan tràn xuống khu vực phía nam châu Á.

Trong khi đó, thực dân Pháp ngày càng hao hụt về quân số do phải phân tán lực lượng để đối phó với cuộc chiến tranh du kích của ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Trong tình thế khó khăn và bị động, Pháp đã cử Đại tướng Rơve (Revers), Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp cùng 6

nghị sĩ Quốc hội Pháp sang Đông Dương để nghiên cứu tình hình. Sau một tháng (16-5 - 17-6-1949) nghiên cứu thực địa và trao đổi với các tướng tá ở Đông Dương, trở về nước, Rơve đã vạch ra một kế hoạch, gọi là Kế hoạch Rơve. Với chiến thuật "khoá then cửa", Rơve chủ trương khoá chặt biên giới Việt - Trung bằng một tuyến phòng thủ vững chắc trên Đường số 4 để cô lập cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chúng tung quân đánh rộng ra vùng trung du, thiết lập hành lang Đông - Tây hòng ngăn chặn con đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Liên khu III và Liên khu IV. Tại Khu III, Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh phía nam sông Hồng, kéo dài phòng tuyến đến tận Hoà Bình. Ở Khu IV, Pháp mở rộng phạm vi hành lang Bình - Trị - Thiên để cắt đứt liên lạc giữa Khu IV và Khu V.

Bên cạnh những thuận lợi mới, cuộc kháng chiến của nhân dân ta cũng gặp không ít khó khăn. Trên chiến trường chính, quân đội ta vẫn chưa nắm được quyền chủ động về chiến lược, chưa giành được ưu thế về quân sự. Căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc vẫn còn nằm trong tình trạng bị địch bao vây, phong toả và có nguy cơ bị chúng tấn công lần thứ hai; vùng trung du và đồng bằng, nơi đông dân nhiều của, vẫn còn bị địch chiếm đóng.

Chính trong tình hình đó, để tạo những chuyển biến mạnh mẽ cho kháng chiến, Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (từ ngày 21-1 đến 3-2-1950) ra nghị quyết nêu rõ: Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của thực dân Pháp, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta. Cùng thời gian này, Trung ương Đảng chỉ thị cho Liên khu uỷ Việt Bắc: "Chuẩn bị chiến trường Đông Bắc cho thật đầy đủ để khi có điều kiện sẽ mở một chiến dịch lớn, quét địch ra khỏi Đường số 4, đánh bại trong vùng Đông Bắc" 1. Đến tháng 5-1950, Trung ương chỉ thị cho Liên khu uỷ Việt Bắc "Về việc vận tải". Chỉ thị nhấn mạnh: "Hiện nay việc giao thông liên lạc giữa nước ta với nước ngoài, đặc biệt với Trung Quốc là rất cần thiết. Trung ương quyết định sửa gấp những con đường lớn trong Liên khu Việt Bắc từ biên giới vào" 2 .

Thực hiện chủ trương của Trung ương, chỉ trong hơn 3 tháng, bằng những nỗ lực to lớn của các đội thanh niên xung phong công tác chiến sĩ công binh và nhân dân địa phương, hàng trăm km đường đã được mở từ biên giới vào nội địa ốc chuẩn bị cho trận đánh lớn của quân đội ta.

Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới ở hướng Cao Bằng - Lạng Sơn, nhằm thực hiện ba mục đích: - Tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch.

- Giải phóng một phần biên giới, mở đường liên lạc với quốc tế.

- Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

2- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950

Chiến trường Biên giới có tầm quan trọng về chiến lược. Do vậy thực dân Pháp bố trí ở đây một lực lượng quân sự khá mạnh. Tổng số binh lực của địch ở Liên khu Biên giới Đông Bắc có 11 tiểu đoàn, 9 đại đội lẻ, phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ (gồm 10 tiểu đoàn). Ngoài ra, địch còn có lực lượng binh chủng gồm 27 khẩu pháo, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh và 8 máy bay. Với binh lực lớn và tinh nhuệ, hệ thống phòng thủ vững chắc, Bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều hi vọng vào khả năng phòng thủ của Liên khu Biên giới. Tuy nhiên, Liên khu này có nhiều điểm bất lợi: Thế bố trí thành tuyến kéo dài trên một con đường độc đạo với những vị trí cô lập cách xa nhau hàng chục km; địa hình rừng núi hiểm trở, phức tạp làm cho quân cơ động ứng chiến bằng cơ giới khó phát huy được tác dụng...

Bộ chỉ huy chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính uỷ và Bí thư Đảng uỷ mặt trận, quyết định tập trung một lực lượng mạnh tham gia chiến dịch.

Lực lượng này gồm có Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174, bốn đại đội sơn pháo cùng với lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Phương án dự kiến ban đầu là đánh địch ở Cao Bằng để thu hút lực lượng địch, nhưng sau khi cân nhắc kĩ, Bộ chỉ huy quyết định đánh xuống Đông Khê - nơi địch tương đối mỏng để đảm bảo chắc thắng. Phương châm chiến dịch là đánh điểm diệt viện.

Phương án trên đã được Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn y. Các mặt chuẩn bị cho chiến dịch cũng được tiến hành khẩn trương. Chúng ta đã huy động hàng chục vạn dân công tập trung để sửa đường vận tải, vận chuyển một khối lượng lớn vật chất ra mặt trận. Với khẩu hiệu Tất cả cho chiến dịch toàn thắng, cán bộ và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến. Khoảng 121.700 dân công thuộc các dân tộc Việt Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến, tổng cộng 1.716.000 ngày công. Khoảng 2/3 cán bộ các cấp của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kim, Lạng Sơn được huy động phục vụ chiến dịch. Đồng bào các dân tộc còn đóng góp cho chiến dịch hơn 100 tấn lương thực. Viện trợ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cũng là nguồn rất quan trọng góp phần đảm bảo cho chiến dịch toàn thắng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "chống gậy lên non xem trận địa", trực tiếp kiểm tra kế hoạch tác chiến, công tác chuẩn bị và động viên cán bộ, chiến sĩ, dân công tham gia chiến dịch.

Sáng 16-9-1950, quân ta nổ súng đánh Đông Khê, mở màn chiến dịch. Trong trận này đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm tuyệt vời, đó là Đại đội trưởng Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai mở đường cho đơn vị xông lên diệt đồn địch; Lý Văn Mưu bị thương đã dùng bộc phá lao vào phá huỷ lô cốt giặc; La Văn Cầu bị thương vào cánh tay đã không chút do dự nhờ đồng đội chặt đứt khỏi vướng để tiếp tục lao lên đánh bộc phá, hoàn thành nhiệm vụ. Các nữ dân công Đinh Thị Dậu, Triệu Thị Soi nhiều lần băng mình qua lửa đạn cứu thương binh, tiếp đạn cho bộ đội... Sau hai ngày chiến đấu quyết liệt bộ đội ta tiêu diệt được vị trí Đông Khê. Thất Khê bị uy hiếp trực tiếp. Cao Bằng hoàn toàn bị cô lập. Thế trận phòng thủ của địch trên Đường số 4 bị rung chuyển.

Đúng như ta phán đoán, Đông Khê thất thủ đã gây nên phản ứng dây chuyền trong giới cầm quyền quân sự và chính trị Pháp.

Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương phải ra lệnh rứt quân khỏi Cao Bằng theo Đường số 4.

Kế hoạch trên được thực hiện bằng cuộc hành quân "kép".

Một mặt, địch cho binh đoàn từ Thất Khê, do Lơ Pagiơ (Le Page) chỉ huy, tiến lên chiếm lại Đông Khê để đón binh đoàn từ Cao Bằng, do Sáctông (Charton) chỉ huy, kéo về. Mặt khác, chúng vét hầu hết lực lượng dự bị chiến lược ở Bắc Bộ (gồm 6

tiểu đoàn) mở chiến dịch mang tên Phôcơ (Pho que: Chó biển) đánh chiếm thị xã Thái Nguyên, hi vọng thu hút chủ lực của ta ở mặt trận Biên giới để đỡ đòn cho đồng bọn và trấn an dư luận trước việc thất thủ Đông Khê.

Nắm được ý đồ của địch, quán triệt phương châm "đánh điểm diệt viện", trên mặt trận Biên giới, bộ đội ta kiên nhẫn mai phục chờ đánh quân tiếp viện.

Sau một thời gian chuẩn bị, vừa thăm dò ý định của ta, ngày 30-9, địch cho binh đoàn Lơ Pagiơ tiến lên Đông Khê. Binh đoàn của Sáctông ở Cao Bằng cũng bắt đầu rút về. Bộ chỉ huy mặt trận chủ trương tập trung lực lượng, tiêu diệt từng cánh quân địch. Trải qua 8 ngày chiến đấu ác liệt tại khu vực núi Cốc Xá và khu Đồi 477 ở phía tây Đông Khê, bằng chiến thuật vận động chiến, quân ta tiêu diệt và bắt gọn' hai binh đoàn địch gồm 7 tiểu đoàn. Ngày 8-10, địch cho một tiểu đoàn, do Đờ la Bôm (De la Beaume) chỉ huy, từ Thất Khê kéo lên định ứng cứu cho Lơ Pagiơ và Sáctông cũng bị đánh tan. Kế hoạch rút quân của địch hoàn toàn sụp đổ.

Liên tiếp từ ngày 10 đến ngày 23-10, địch lần lượt rút chạy khỏi các vị trí: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu. Trong quá trình rút chạy, địch lại bị quân ta truy kích tiêu diệt thêm một phần lực lượng.

Phối hợp với mặt trận Biên giới, trên các chiến trường khác, quân ta tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiến công địch.

Tại mặt trận Tây Bắc, quân và dân ta vừa hoàn thành nhiệm vụ nghi binh, vừa tiêu diệt và buộc địch phải rút bỏ hàng loạt vị trí, trong đó có thị xã Lào Caithị trấn Sa Pa.

Tại Việt Bắc, cuộc tấn công lên Thái Nguyên của 6 tiểu đoàn địch đã bị quân và dân ta đập tan. Không thực hiện được ý đồ áeo chủ lực của ta ở mặt trận Biên giới về, lại bị thiệt hại gần 1.000 tên. Ngày 11-10 quân Pháp buộc phải rút khỏi thị xã Thái Nguyên.

Ở chiến trường Bắc Bộ, quân và dân ta đánh mạnh, tiêu diệt 700 địch, buộc chúng phải rút 44 vị trí, trong đó có thị xã Hoà Bình. Ở Bình - Trị - Thiên, quân ta mở chiến dịch Phan Đình Phùng, đột nhập thị xã Quảng Trị, đánh mìn trên đoạn dường Huế - Đà Nẵng, thực hiện được nhiệm vụ tiêu hao và kiềm chế địch tại chỗ, không cho chúng điều quân ra Bắc Bộ.

Sau khoảng một tháng chiến đấu dũng cảm và mưu trí của quân và dân ta, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Quân ta đã tiêu diệt và bắt khoảng 8.300 địch, gồm 8 tiểu đoàn Âu - Phi và 2 tiểu đoàn ngụy, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; giải phóng một dải biên giới với chiều dài 750 km, gồm 350.000 dân. Nếu tính cả các chiến trường phối hợp với mặt trận Biên giới, tổng số địch bị tiêu diệt và bị bắt là 11.500 tên; một vùng rất rộng lớn khoảng 4.000 km2 cùng với 400.000 dân được hoàn toàn giải phóng; địch buộc phải rút khỏi 217 vị trí, trong đó có 5 thị xã quan trọng: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên và Hoà Bình; hành lang Đông - Tây của địch bị phá vỡ. Con đường liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu IV được thông suốt. Sự thông thương giữa nước ta với quốc tế cũng được mở ra trên nhiều hướng. Từ đây, hậu phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nối liền với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, với Liên Xô và với các lực lượng yêu chuộng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thoát khỏi thế bao vây phong toả của các thế lực đế quốc, có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế.

Đối với địch, đây là một thất bại nặng nề chưa từng có từ trước đến bấy giờ. Cả một loạt kế hoạch chính trị, quân sự mà Pháp ra sức thực hiện từ sau thu - đông 1947 đã bị phá sản. Kế hoạch Rơve cơ bản bị thất bại. Tất cả những tổn thất ấy đã khoét sâu thêm khó khăn về quân sự và giáng một đòn mạnh vào tinh thần tướng sĩ địch. Thất bại ở biên giới đã gây nên sự đảo lộn lớn về chiến lược, chiến thuật của thực dân Pháp. Chúng phải bố trí lại quân lực, thay đổi chỉ huy, thay đổi chiến thuật và ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự về chiến lược.

Đối với nhân dân ta; sau bốn năm kháng chiến toàn quốc, đây là lần đầu tiên quân đội ta chủ động mở một chiến dịch tiến công quy mô lớn và chiến thắng giòn giã. Chiến thắng này đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch và trình độ tác chiến tập trung của quân đội ta.

Với chiến thắng Biên giới, quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ) đã thuộc về quân đội ta. Cục diện chiến tranh đã thay đổi có lợi cho ta. Từ đó về sau, quân đội ta liên tục chủ động tiến công và phản công địch. Chiến thắng Biên giới mở ra bước ngoặt cơ bản, đưa cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy.

Chiến thắng Biên giới còn phản ánh kết quả của Đảng và Chính phủ về xây dựng hậu phương kháng chiến. Chính kẻ địch cũng phải thừa nhận: "Đây thực sự là một cuộc chiến tranh của một dân tộc có tinh thần đấu tranh cương quyết bảo vệ độc lập của nước mình".

 

II- Đế quốc Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương – Kế hoạch Đờ Lát đờ Tătxinhi

1. Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương

Từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao và quân sự.

Uy tín và địa vị của Nhà nước ta được nâng cao trên trường chính quốc tế. Sau khi thiết lập được quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của bạn bè không chỉ về tinh thần mà cả vật chất. Năm 1950, hàng viện trợ của Trung Quốc bắt đầu được chuyển đến Việt Nam.

Cùng với sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển; phong trào đấu tranh vì hoà bình và dân chủ cũng ngày càng lan rộng. Tại nước Pháp, phong trào phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu của thực dân Pháp ở Đông Dương ngày càng dâng lên mạnh mẽ. Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội lên tiếng chất vấn, công kích Chính phủ theo đuổi cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Đông Dương. Nhân dân các nước Angiêri, Marốc, Tuynidi... lên tiếng đòi rút quân đội viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam.

Trước tình thế đó, thực dân Pháp nhận thấy khó có thể tiếp tục cuộc chiến tranh nếu không có sự giúp sức của đế quốc Mĩ .

Vì vậy, dù mâu thuẫn với Mĩ, thực dân Pháp vẫn buộc phải dựa vào Mĩ, cầu xin viện trợ Mĩ để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Về phía đế quốc Mĩ, nhân lực Pháp thất bại ở mặt trận Biên giới, chúng tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng lan xuống Đông Nam Á, từng bước thay chân Pháp, độc chiếm Đông Dương.

Tháng 12-1950, Mĩ, Pháp cùng với các Chính phủ bù nhìn Việt, Miên, Lào kí Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương.

Với Hiệp định này, Mĩ cam kết sẽ viện trợ quân sự cho chính quyền bù nhìn ba nước để phòng thủ Đông Dương. Cuối tháng 1-1951, Thủ tướng Pháp Plêven và Tổng Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp Ala hội đàm với Tổng thống Mĩ Truman về viện trợ cho Đông Dương. Pháp yêu cầu Mĩ cung cấp tối đa vũ khí và các trang bị cần thiết cho quân đội bù nhìn.

Tháng 9-1951, Mĩ và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại kí hiệp ước tay đôi dưới tên gọi Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mĩ, nhằm chuyển thẳng một phần viện trợ của Mĩ cho Chính phủ Bảo Đại.

Thông qua đó, Mĩ từng bước nắm chặt ngụy quyền Bảo Đại.

Tháng 12-1951, Mĩ cùng Bảo Đại kí tiếp bản Hiệp nghị an ninh chung.

Dựa vào các bản hiệp định trên, viện trợ của Mĩ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách chiến tranh Đông Dương: Năm 1950: 52 tỉ phrăng (19% ngân sách) Năm 1951: 62 tỉ phrăng (16% - ) Năm 1952: 200 tỉ phrăng (35% - ) Năm 1953: 285 tỉ phrăng (43% - ) Năm 1954: 555 tỉ phrăng (73% - ) 1. Từ năm 1950 đến năm 1953, đế quốc Mĩ đưa vào Đông Dương khoảng 400.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh.

Riêng trong hai năm (1952 - 1953), số tiền Mĩ cho Pháp vay là 314 triệu đôla.

Các phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự Mĩ cũng lần lượt sang Việt Nam.Tháng 5-1950, phái đoàn viện trợ Mĩ đến Sài Gòn. Tháng 9-1950, phái đoàn cố vấn quân sự Mĩ (MAAG) được thành lập ở Việt Nam. Năm 1952, các Phòng Thông tin Mĩ được đặt ở nhiều nơi trong vùng thực dân Pháp chiếm đóng.

Các tướng, tá, chính khách Mĩ ở Đông Dương ngày càng tăng.

Các trung tâm và trường huấn luyện của Mĩ bắt đầu tuyển chọn và đưa người Việt Nam sang học tại Mĩ .

2 - Kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi

Được Mĩ viện trợ, thực dân Pháp tập trung lực lượng phòng ngự và bình định vùng tạm chiếm, nhất là khu vực đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời chuẩn bị mở các cuộc phản công với hi vọng giành lại quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi (De Lattre de Tassigny) - Tư lệnh lục quân Khối Tây Âu - sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Đông Dương. Đây là lần đầu tiên sau 5 năm chiến tranh xâm lược Đông Dương, Chính phủ Pháp tập trung quyền hành cả quân sự và chính trị vào tay một viên tướng để thống nhất chỉ đạo chiến tranh. Đờ Lát vạch ra một kế hoạch quân sự gồm 4

điểm chủ yếu: Gấp rút tập trung quân Âu - Phi để xây dựng thành một lực lượng cơ động chiến lược mạnh; đồng thời phát triển ngụy quân với quy mô lớn.

- Xây dựng quân đội quốc gia của chính quyền bù nhìn Bảo Đại.

- Xây dựng tuyến công sự phòng thủ bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó với chủ lực của ta và ngăn chặn ta đưa nhân lực, vật lực ra vùng tự do.

- Tiến hành chiến tranh tổng lực, bình định vùng tạm bị chiếm và vùng du kích; đồng thời phá hoại hậu phương kháng chiến và chuẩn bị tấn công ra vùng tự do.

Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch Đờ Lát là tập trung nỗ lực của đội quân viễn chinh Pháp vào chiến trường Bắc Bộ, làm cho Bắc Bộ trở thành "cái then cửa" của vùng Đông Nam Á chống lại phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ ở khư vực này. Tiếp theo kế hoạch Rơ ve, Kế hoạch Đờ Lát càng thể hiện rõ sự can thiệp của Mĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và viện trợ Mĩ từ lúc này đã trở thành một điều kiện hết sức quan trọng để thực hiện Kế hoạch Đờ Lát. vừa phải lo đối phó với các chiến dịch tiến công của quân đội ta và ra sức càn quét để ổn định vùng tạm chiếm, thực dân Pháp vừa đẩy mạnh tốc độ thực hiện kế hoạch Đờ Lát.

Về chính trị, với việc Bảo Đại lên ngôi "Quốc trưởng" và chính phủ Trần Văn Hữu làm lễ tuyên thệ (3-1951), thực dân Pháp coi như đã hoàn thành việc lập chính quyền tay sai. Chúng ra sức tuyên truyền cho nền độc lập giả hiệu và tô son trát phấn cho chính quyền bù nhìn. Để tập trung quyền hành trong tay, Trần Văn Hữu lần lượt thanh trừng lực lượng Đại Việt của Nguyễn Hữu Trí ở Bắc Bộ, cách chức Phan Văn Giáo, thủ hiến Trung phần, bao vây phong toả vùng kiểm soát của lực lượng Cao Đài, thay thế khu tự trị công giáo" ở Bùi Chu, Phát Diễm bằng tổ chức hành chính quân sự của ngụy quyền. Chính phủ Trần Văn Hữu tiếp tục công nhận các công sở do Pháp bàn giao, tổ chức bộ máy hành chính từ tỉnh, huyện xuống tới xã, thôn trong vùng tạm chiếm.

Cùng với việc củng cố bộ máy ngụy quyền, thực dân Pháp và tay sai còn tập hợp và tranh thủ các đảng phái phản động; đồng thời tổ chức thêm nhiều đoàn thể tổ chức chính trị lừa bịp như "Thanh niên kháng chiến hải ngoại", "Thanh niên lao động", "Thanh niên diệt cộng", "Đoàn thanh niên kiến quốc"... để lôi kéo quần chúng, phá hoại kháng chiến. Chúng dùng bọn cha cố phản động nắm giáo dân, bắt phu, bắt lính, phá hoại việc thực hiện các chính sách của ta, nhất là ở những vùng tập trung đồng bào công giáo.

Ở vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp nham hiểm và xảo quyệt đẩy mạnh việc thực hiện "ba chính sách lớn" (chính sách có mặt; chính sách muối, kí ninh, dụng cụ và chính sách không can thiệp) để khống chế nhân dân các dân tộc vùng Tây Nguyên.

Thông qua bộ máy cai trị từ tỉnh xuống buôn làng, qua các cuộc hành quân và nhất là bằng chính sách độc quyền nắm và phân phát muối, thuốc chữa bệnh, công cụ sản xuất, thực dân Pháp ra sức kìm kẹp nhân dân, buộc họ phải theo chúng chống lại kháng chiến.

Trong các vùng tạm chiếm, với việc đẩy mạnh thực hiện chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp, nhân dân ta phải đóng góp rất nặng nề. Ở Bắc Bộ, ngoài việc tăng các loại thuế, thực dân Pháp đặt ra nhiều thứ thuế mới: thuế đò, thuế bến, thuế nhà ngói dọc đường, thuế binh bị quốc phòng... Chúng còn triệt để thi hành chính sách "tam quang" (cướp sạch, đất sạch, phá sạch), hòng triệt phá nguồn cung cấp cho kháng chiến. Tháng 3-1951, ở Bắc Bộ, thực dân Pháp mở chiến dịch cướp phá thóc lúa. Chúng ra lệnh binh lính phải theo dõi từng bước việc gặt hái của nông dân, kiểm soát chặt chẽ các chợ và đường giao thông, bắt nông dân phải tập trung thóc gạo bán cho nhà chức trách. Mỗi khi càn quét, chúng ra sức cướp phá; không lấy được hết, chúng đổ thóc gạo xuống sông, ao, hồ.

Ở một số nơi, chúng bắt dân tập trung thóc gạo lên đồn rồi phát ăn từng ngày, cho quân "gặt cướp" ở các vùng giáp ranh.

Ở vùng Bình - Trị - Thiên, thực dân Pháp liên tiếp tiến hành các "trận phá lúa", các "chiến dịch vét thóc gạo". Tại Liên khu V, địch tiến hành cuộc "chiến tranh gạo" rất gay gắt hòng bao vây lương thực vùng tự do. Tại Nam Trung Bộ, địch càn quét dữ dội vùng đồng bằng tạm chiếm ven biển, nhất là ở Ninh Thuận, Khánh Hoà để vơ vét thóc gạo. Hàng ngàn dân bị dồn vào các "khu chiêu an", "khu tập trung". Nhiều cơ sở kháng chiến bị vỡ.

Hệ thống đồn lốt tháp canh của địch trước đây bố trí theo tuyến, nay chuyển sang bố từ theo diện. Phong trào kháng chiến ở Liên khu V, nhất là ở vùng tạm chiếm đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Lúc này ta chỉ nắm được 9.000 trên tổng số 180.000 dân ở Khánh Hoà, 10.000 trên 12.000 dân ở Ninh Thuận và 40.000 trên 950.000 dân ở Bình Thuận 1. Hầu hết thóc gạo, lương thực trong vùng tạm chiếm đều bị giặc Pháp chiếm đoạt, làm cho nạn đói trở nên trầm trọng. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp kiểm soát được phần lớn mạng lưới giao thông, nên càng đẩy mạnh “chiến tranh kinh tế”. Chúng thường xuyên cho tàu chiến tiến sâu vào các sông và kênh rạch, bắn phá bừa bãi các làng xóm ven sông, gây cho nhân dân ta nhiều tổn thất về người và cửa.

Dựa vào viện trợ của Mĩ, thực dân Pháp đẩy nhanh việc xây dựng quân đội ngụy, hoàn chỉnh hệ thống vành đai phòng thủ bao quanh đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Tháng 5-1951, Bộ Quốc phòng ngụy được tổ chức lại, đặt bên cạnh cơ quan cố vấn Pháp do tướng Đờ Latua (De Latour) phụ trách. Từ sau khi Bảo Đại kí đạo dụ "tổng động viên" (15-7- 1951), giặc Pháp và ngụy quyền tay sai ráo riết thực hiện dồn dân, bắt lính. Kết hợp với biện pháp vây bắt, cưỡng bức, chúng dùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo thanh niên vào lính. Bằng những thủ đoạn này, trong đợt tổng động viên, địch đã bắt được 6 vạn người vào lính và tốp sĩ quan người Việt đầu tiên được tập trung huấn luyện, làm nòng cốt xây dựng "quân đội quốc gia". Sau sáu tháng kể từ khi ban hành lệnh "tổng động viên", "quân dội quốc gia" đã có 45 tiểu đoàn, tăng 24 tiểu đoàn so với đầu năm 1951, trong đó có 28 tiểu đoàn được tổ chức thành 4 sư đoàn bộ binh. Các sư đoàn này đều do sĩ quan Pháp chỉ huy và chịu sự chỉ huy hành quân của các bộ chỉ huy quân sự các miền của Pháp.

Một số cơ quan và đơn vị binh chủng được tổ chức, như công binh, pháo binh, nha quân cụ, toà án quân sự, hiến binh quốc gia... Các trường huấn luyện sĩ quan cũng được chấn chỉnh lại.

Trường võ bị liên quân ở Huế chuyển vào Đà Lạt. Một trường võ bị đào tạo sĩ quan trù bị được mở tại Nam Định. Các sĩ quan trù bị sau khi huấn luyện được đưa về các đơn vị tiểu đoàn Việt Nam (BVN), thay thế các sĩ quan người Pháp. Một số trường đào tạo hạ sĩ quan và chỉ huy chuyên môn cũng được mở.

Song song với việc xây dựng và phát triển lực lượng chính quy, Pháp và tay sai cũng chú ý chấn chỉnh và tăng cường tổ chức quân sự. Ở các địa phương. Ở tỉnh, thường có một đại đội bảo chính đoàn, đặt bên cạnh tiểu đội quân Liên hiệp Pháp. Ở quận, có từ một đến hai trung đội do quận trưởng chỉ huy. Ở tổng, tổng dũng nắm các đội hương dũng, các đội vũ trang ở thôn ấp. Tất cả các lực lượng này vẫn phải đặt dưới sự điều khiển của cơ quan chỉ huy quân sự của Pháp ở địa phương.

Lực lượng ngụy quân mới xây dựng chủ yếu làm nhiệm vụ chiếm đóng, thay thế cho lực lượng quân viễn chinh rút ra làm nhiệm vụ tác chiến. Nhờ đó, thực dân Pháp đã rút được một bộ phận quân tinh nhuệ tổ chức thành các binh đoàn cơ động làm nhiệm vụ tác chiến trên các chiến trường. Đến tháng 10-1951, trên toàn Đông Dương, Pháp đã tổ chức được 7 binh đoàn cơ động (GM) và 9 tiểu đoàn dù dự bị chiến lược, nâng lực lượng cơ động chiến lược lên gấp ba lần so với năm 1950. Mặc dù vậy, để đối phó với chiến tranh du kích phát triển ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch và giữ đất ở vùng đồng bằng đông dân, nhiều của, thực dân Pháp vẫn phải dành phần lớn binh lực để làm nhiệm vụ chiếm đóng. Năm 1951, lực lượng chiếm đóng tăng từ 77 tiểu đoàn lên 109 tiểu đoàn chính quy, chiếm 67% tổng số quân toàn Đông Dương.

Coi chiến trường Bắc Bộ là "cái then cửa của vùng Đông Nam Á", thực dân Pháp bố trí ở chiến trường này một binh lực khá lớn: 54% lực lượng pháo binh và lính dù, 50% lực lượng pháo binh, 42% cơ giới thiết giáp, 71 % lực lượng công binh 1.

Tại Bắc Bộ, Pháp tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ mạnh gồm hệ thống công sự bằng bê tông cốt thép (boongke) gồm 800 lô cột lập thành hàng chục cứ điểm lớn, nhỏ do 25 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ chiếm đóng, kéo dài từ Hòn Gai, Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, qua Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Hà Đông, đến Ninh Bình. Ở vòng ngoài, song song với phòng tuyến boongke là một "vành đai trắng" có chiều rộng từ 5 - 10 km.

Trên khắp chiến trường từ Nam đến Bắc, quân địch đẩy mạnh bình định ở những vùng chúng kiểm soát. Chúng liên tiếp mở các chiến dịch càn quét với quy mô lớn. Ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, dựa vào tổ chức ngụy quyền và lực lượng phản động trong các giáo phái, địch mở các cuộc hành quân "diệt du, quét cán, càn thanh" (diệt du kích, quét cán bộ, càn thanh niên), đồng thời đánh phá vùng du kích của ta.

Ở vùng biển Hải Phòng, Kiến An, địch khẩn trương xây dựng thêm nhiều công sự boongke kiểu mới, mở rộng sân bay Cát Bi nhằm biến khu vực Hải Phòng - Kiến An - Đồ Sơn - Quảng Yên thành "pháo đài mạnh ven biển". Chúng thay đổi chỉ huy và càn quét dữ dội, đánh phá các cơ sở của ta.

Tại Nam Sách (Hải Dương), ngụy quyền tổ chức thí điểm đội "quân thứ hành chính lưu động" (GAMO), một tổ chức hành chính - chính trị - quân sự chuyên làm nhiệm vụ bình định, thành phần gồm sĩ quan, binh lính, gián điệp, chỉ điểm, nhân viên hành chính, y tế giáo đục, văn hoá... Thông qua đội quân này, chúng truy quét cơ sở kháng chiến, lập lại ngụy quyền, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo quần chúng.

Ở Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông... địch ráo riết thực hiện thủ đoạn "chiêu an". Chúng thành lập các tổ chức cứu tế xã hội", "trại hồi cư”, "hội giúp đỡ đồng bào hồi cư” nhằm mua chuộc, lôi kéo cán bộ và nhân dân ở vùng tự do về vùng tạm chiếm.

Chúng dồn dân vào các khu tập trung gọi là "đại xã" để dễ dàng kìm kẹp, khống chế nhân dân và cô lập lực lượng kháng chiến.

Tại vùng đồng bằng Nam Trung Bộ, Pháp phát triển đồn bốt, tháp canh, kết hợp quân ứng chiến với quân chiếm đóng; rào làng, dồn dân, tập trung lúa của dân vào đồn, phát triển tề điệp để khống chế và kiểm soát dân. Ở vùng chiếm đóng Bắc Quảng Nam, đầu năm 1950 có 125 tháp canh, đến cuối năm tăng lên 174; ở Khánh Hoà, năm 1951 địch đóng 109 đồn và 213 tháp canh, lùa dân vùng này đi gặt lúa vùng khác đưa về đồn, tối bắt dân ngủ ở đồn. Ở Ninh Thuận, địch bắt dân rào hết các làng.

Đối với Tây Nguyên, để nắm được địa bàn chiến lược quan trọng này, từ tháng 2-1951, thực dân Pháp đã tách Tây Nguyên khỏi Trung phần, thành lập khu độc lập trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy quân viễn chinh. Tại đây, chúng thành lập các trung đội "xung kích xuyên sơn”, các tiểu đoàn sơn chiến gồm người dân tộc ít người để tác chiến ở vùng núi. Ngoài ra, chúng còn thực hiện một thủ đoạn mới rất thâm độc là phát triển các ổ vũ trang phản động ở các địa phương, gọi là Gum để biến dần người dân bình thường thành người lính chống lại kháng chiến.

Tại Nam Bộ, cùng với chính sách kìm kẹp và cướp đoạt, thực dân Pháp và tay sai ra sức lợi dụng các tôn giáo để mê hoặc và lôi kéo quần chúng chống lại kháng chiến. Chúng thành lập các đội quân giáo phái và chuyển giao cho Bộ tham mưu ngụy chỉ huy để sử dụng vào kế hoạch bình định, càn quét. Bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo, đến cuối năm 1951, thực dân Pháp đã bắt hàng vạn thanh niên, có cả thiếu niên 14 - 15 tuổi, vào lính. Trong các thành phố lớn, địch cũng ráo riết bình định.

Ở Hà Nội, từ tháng 7-1951, tiếp theo những cuộc vây càn lớn, địch chuyển sang đánh phá sâu vào các tổ chức của ta. Chúng cài cắm tay chân vào các đoàn thể, các cơ sở kháng chiến của ta để hoạt động phá hoại. Một số đơn vị bảo chính đoàn được chúng điều động trở lại đóng bốt để làm chỗ dựa cho bọn tay sai lập hội tề, bảo an: ở thành phố Hải Phòng, ngoài hàng ngàn lính cơ động, còn có cả một hệ thống cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm cài cắm khắp các ngõ phố, nhà máy , bến cảng . . .

Thực dân Pháp còn huy động lực lượng cơ động mở các cuộc càn lớn để tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, phá nát các làng chiến đấu và căn cứ du kích dập tắt phong trào chiến tranh du kích đang ngày một lan rộng ở khắp các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi đã gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng sau lưng địch. Tại một số vùng, nhiều làng xóm bị tàn phá, cơ sở kháng chiến bị tổn thất, phong trào đấu tranh của nhân dân bị giảm sút. Chỉ riêng cuộc càn quét của địch vào đầu tháng 10-1951, chúng đã chiếm lại khu vực ba huyện Tiên Hưng - Duyên Hà - Hưng Nhân, với 363 làng, gồm 280.000 dân. Căn cứ du kích liên hoàn ba huyện ở phía bắc tỉnh Thái Bình trở thành vùng tạm chiếm.

Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt hoạt động của kháng chiến.

 

III- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thử II của Đảng Cộng sản Đông Dương (2-1951)

Bước vào những năm 50 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) - thành lập từ tháng 1-1949, với mục tiêu phối hợp hoạt động kinh tế để củng cố và phát triển sự hợp tác giữa các nước, phát triển một cách có kế hoạch nền kinh tế quốc dân và nâng cao đời sống nhân dân - ngày càng có nhiều nước tham gia.

Ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, cơn bão táp cách mạng tiếp tục phát triển, từ Đông Nam Á sang Trung Đông và châu Phi. Phong trào bảo vệ hoà bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Từ ngày 16 đến ngày 22-11-1950, Đại hội hoà bình thế giới lần thứ hai được tổ chức tại Vácsava, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu thuộc 81 nước. Đại hội đã thông qua Lời hiệu triệu gửi nhân dân toàn thế giới, đòi chấm dứt chiến tranh ở Triều Tiên, Việt Nam..., đòi cấm chế tạo và sử dụng bom nguyên tử, đòi giải trừ quân bị... Đại hội cũng quyết định thành lập Hội đồng hoà bình thế giới, gồm đại biểu của tất cả các dân tộc.

Ở trong nước, sau gần 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng (3-1935), tình hình đã có nhiều chuyển biến rất căn bản.

Qua hơn 5 năm chiến đấu, lực lượng kháng chiến đã lớn lên nhiều về mọi mặt, nhất là về quân sự. Từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta phát triển sang thời kì mới. Hậu phương kháng chiến được nối liền với phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước bạn Lào và Campuchia cũng giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.

Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của ta lúc này gặp nhiều khó khăn mới do âm mưu của đế quốc Pháp, Mĩ .

Tình hình trên đòi hỏi cuộc kháng chiến phải tăng cường hơn nữa tính chất toàn diện và sự lãnh đạo của Đảng.

Mặt khác, từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng do hoàn cảnh vô cùng phức tạp và để giữ vững khối đoàn kết, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Điều này ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng Yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến đòi hỏi phải có sự lãnh đạo công khai của Đảng.

Xuất phát từ những lí do trên, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang), từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên trong cả nước.

Sau bài Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh, báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính...

Báo cáo chính trị đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kì vận động cách mạng; khẳng định đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ dũng cảm, tận tụy hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Báo cáo cũng nghiêm khắc vạch rõ những khuyết điểm trong cán bộ, đảng viên, đó là việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin còn yếu, tư tưởng chưa vững vàng, lề lối làm việc còn quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần... Trên cơ sở đó Báo cáo chính trị nêu nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới".

Để thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu đó, phải động viên tinh thần yêu nước, ra sức thi đua ái quốc, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, thực hiện chính sách ruộng đất.

Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; phân tích tính chất xã hội Việt Nam từ sau Cách mạng thảng Tám là "phức tạp và phát triển không đều, có tính chất dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến..."
1. Trong xã hội nổi lên mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược, mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với giai cấp địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược là mâu thuẫn chính. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp và can thiệp Mỉ và bọn bù nhìn Việt gian bán nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam "là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gian phản nước, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"
2. Bản báo cáo phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, khẳng định lực lượng cách mạng ở Việt Nam "là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, rồi đến giai cấp tư sản dân tộc; ngoài ra là những phần tử cá biệt xuất thân từ giai cấp địa chủ (phần nhiều là tiểu địa chủ) đang đi với nhân dân, được gọi là nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước..."3.

Đại hội đề ra những chính sách cơ bản về công tác xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường quân đội, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, phát triển kinh tế - tài chính, văn hoá - giáo dục... nhằm đẩy mạnh kháng chiến toàn diện.

Xuất phát từ tình hình cụ thể và yêu cầu cách mạng của ba nước Đông Dương, Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước một Đảng Mác - Lê nin riêng biệt, có cương lĩnh thích hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.

Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, giúp đỡ và phối hợp với các Đảng cách mạng vào và Campuchia, đưa sự nghiệp kháng chiến của ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng; quyết định xuất bản báo Nhân dân làm cơ quan ngôn luận của Đảng.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết 1. Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng và Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai được tiến hành trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta có nhiều chuyển biến mới. Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm vận động cách mạng của Đảng, đồng thời nêu rõ những nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Đại hội được gọi là Đại hội kháng chiến thắng lợi .

1. Bộ Chính trị gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh và 1 uỷ viên dự khuyết là Lê Văn Lương.

 

IV- Xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặt

Hậu phương có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố thường xuyên có tính chất quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hậu phương, Đảng ta sớm đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện.

Hậu phương chiến tranh nhân dân là một hệ thống căn cứ, bao gồm các cơ sở chính trị ở thành thị và nông thôn, các khu du kích và căn cứ du kích trong vùng tạm bị địch chiếm; các vùng tự do rộng lớn nằm trên khắp lãnh thổ đất nước.

Trải qua 5 năm kháng chiến, hậu phương căn cứ địa được mở rộng. Ngoài vùng tự do liên hoàn nối thông từ Liên khu Việt Bắc xuống Liên khu III vào Liên khu IV, còn có vùng tự do gồm nửa tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngài, Bình Định, Phú Yên cùng với các khu căn cứ Ba Tơ, Trà Bồng, Di Lăng, Minh Long, Bắc Ái, Sơn Hà tạo thành hậu phương trực tiếp của chiến trường Liên khu V và một phần Nam Bộ. Các chiến khu Đ, Đồng Tháp, Dương Minh Châu, U Minh của Nam Bộ vẫn được giữ vững.

Ở vùng tự do, nơi có những điều kiện thuận lợi, nhân dân ta đã xây dựng chế độ mới, phù hợp với bước đi của cách mạng nước ta. Chế độ mới được xây dựng trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; cả về cơ sở vật chất và ý thức tư tưởng. Đây chính là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của hậu phương kháng chiến.

Về kinh tế

Kháng chiến càng kéo dài, càng trở nên quyết liệt, nhu cầu cung cấp cho mặt trận quân sự ngày càng lớn. Những thắng lợi giành được trên lĩnh vực kinh tế trong những năm 1948 - 1950

tuy to lớn, nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Từ năm 1950, các chiến dịch đánh vận động ngày càng nhiều; do đó nhu cầu cung cấp cho kháng chiến tăng lên gấp bội.

Riêng trong chiến dịch Biên giới, để bảo đảm chiến đấu cho gần 30.000 người tham gia, ta đã phải chuẩn bị 2.250 tấn lương thực, 190 tấn súng đạn, 660 tấn các loại thực phẩm, quân trang, quân dụng và huy động hơn 120.000 dân công (tương đương với 1.700.000 ngày công). Trừ 100 tấn lương thực, thực phẩm huy động tại chỗ, còn toàn bộ phải huy động dân công kết hợp với bộ đội vận tải bằng ô tô và một số xe thô sơ vận chuyển từ hậu phương tới .

Trong khi đó, kinh tế, tài chính của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn (năm 1950 tổng số thu chỉ bằng 23% tổng số chi).

Nước ta bị chia cắt thành nhiều vùng; nền kinh tế trong căn cứ địa Việt Bắc rất thấp kém, rừng núi chiếm nhiều, đất canh tác ít, lại bị địch bao vây, phong toả, phá hoại.

Việc tổ chức và chính sách kinh tế, tài chính của ta còn mang nặng tính du kích, chưa có sự quản lí thống nhất. Do vậy, nhân dân tuy hăng hái đóng góp cho kháng chiến, nhưng tiền của còn rải rác ở các địa phương. Phần thu của Nhà nước không đảm bảo cho số chi ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.

Năm 1951, sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn nghiêm trọng.

Thiên tai lũ lụt xảy ra làm cho mùa màng ở nhiều nơi bị thiệt hại nặng. Riêng tỉnh Nghệ An bị thiệt hại từ 20 đến 40% hoa màu; Hà Tĩnh hư hỏng 80% diện tích khoai lang, 40% diện tích lúa, 1.000 tấn muối bị ngập nước. Bình - Trị - Thiên gần như bị mất toàn bộ diện tích lúa và hoa màu, giặc Pháp lại ra sức tàn phá; riêng trong một trận càn ở huyện Phong Điền, chúng bắn chết một lúc 300 con trâu, bò ... Ở Liên khu V, do hạn hán kéo dài và một số công trình thuỷ lợi bị địch phá hoại, nên sản lượng lương thực giảm sút. Nạn đói đe doạ cả bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên...

Vấn đề thiếu lương thực trước đây hầu như chỉ đặt ra đối với Việt Bắc, lúc này trở thành khó khăn chung của cả nước.

Tình hình trên đòi hỏi phải có sự chuyển hướng mạnh mẽ về kinh tế tài chính. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp mới toàn diện và có hiệu quả. Với tư tưởng chỉ đạo Tất cả để chiến thắng, Đảng đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của cuộc kháng chiến và phá tan âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch.

Để phát triển tiềm lực kháng chiến, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 1 (3-1951) xác định phương hướng cụ thể: muốn kháng chiến trường kì phải luôn luôn tăng cường tiềm lực kinh tế, tài chính; phải cơi kinh tế, tài chính là nhiệm vụ rất quan trọng; các cấp phải tăng cường lãnh đạo kinh tế, chính sách kinh tế là tăng gia sản xuất, chính sách tài chính là tăng thu giảm chi, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn tư nhân để phát triển công thương nghiệp, phát triển công thương, mở mang mậu dịch với nước bạn...

Tháng 4-1951, Hội đồng Chính phủ mở cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập công nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến.

Chính phủ quyết định thành lập và kiện toàn các cơ quan chỉ đạo kinh tế như Khuyến nông, Khai hoang, Tín dụng, Lâm chính, Địa chính, Thuỷ nông...

Hưởng ứng cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập công, cả nước dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất rất sôi nổi.

Diện tích trồng cây lương thực và hoa màu tăng lên nhiều so với các năm trước.

Riêng toàn Liên khu Việt Bắc đã cày cấy thêm 25.913 mẫu lúa và 12.698 mẫu hoa màu. Uỷ ban kháng chiến - hành chính Liên khu Việt Bắc lập quỹ luân chuyển có vốn 26 triệu đồng giúp các tỉnh mua sắm nông cụ. Cơ quan nông chính cấp 37 tấn thóc giống cho các địa phương làm vụ mùa.

Với khẩu hiệu Tự làm lấy ăn để đánh giặc, quân và dân Nam Bộ đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự cấp tự túc. Bộ đội miền Đông trung bình mỗi năm sản xuất tự túc 4 tháng, có đơn vị dành 6 tháng cho sản xuất Bộ đội miền Tây mùa mưa sản xuất, mùa khô đi chiến đấu. Tại chiến khu Đ, nhân dân tổ chức khai hoang làm rẫy trên những vùng đất dọc sông Bé, xây dựng được 7 nông trường trồng lúa, ngô, khoai, sắn....

Từ năm 1952, cuộc Đại vận động sản xuất và tiết kiệm được phát động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Cuộc vận động được toàn dân hưởng ứng sôi nổi. Cán bộ các cơ quan, xí nghiệp, học sinh và các đơn vị bộ đội cũng tích cực tham gia sản xuất lương thực và thực phẩm.

Nhờ có những biện pháp tích cực trên, sản xuất lương thực không ngừng tăng lên. Tính riêng trong vùng tự do, năm 1951 sản xuất được 2.727.600 tấn lương thực, năm 1952 tăng lên 2.852.900 tấn và năm 1953 là 2.916.000 tấn.

Để tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất từng bước theo đường lối riêng biệt, phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam.

Từ năm 1949, Đảng và Chính phủ đề ra sắc lệnh giảm tô, giảm tức xoá nợ, hoãn nợ; chia lại ruộng đất công cho công bằng, hợp lí; tạm chia, tạm giao ruộng đất vắng chủ, ruộng đất tịch thu của thực dân Pháp và Việt gian... cho nông dân không có ruộng và thiếu ruộng. Việc thực hiện chính sách giảm tô đã đạt kết quả lớn. Tính từ Liên khu IV trở ra, đến năm 1953, đã có 397.000 ha ruộng đất được giảm tô 25%.

Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định về thể lệ tạm thời sử dụng công điền, công thổ; xác định nguyên tắc sử dụng công điền công thổ là phải làm lợi cho tăng gia sản xuất, củng cố đoàn kết nông thôn, sát với tình hình địa phương, dân chủ và công bằng. Theo quy định của Chính phủ, công điền được chia cho tất cả nông dân nam, nữ từ 16 tuổi trở lên, trừ các phần tử Việt gian đã thành án.

Những người ngụ cư mà tự nguyện trực tiếp canh tác và nếu nhân dân đều bằng lòng thì cũng được chia; thương binh, bệnh binh, gia đình tử sĩ được ưu đãi. Gia đình có con em đi lính cho Pháp cũng được chia ruộng để sản xuất.

Ngày 5-3-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ban hành Bản điều lệ tạm thời sử dụng công điền công thổ gồm 7 chương, quy định nguyên tắc chia, đối tượng được chia, cách chia, nghĩa vụ và quyền hạn của người được lĩnh công điền công thổ...

Chính phủ chủ trương tiếp tục khuyến khích địa chủ không phải là Việt gian, nhất là địa chủ lớn ở Nam Bộ hiến ruộng cho Nhà nước. Theo quyết định của Hội nghị Hội đồng Chính phủ (từ ngày 18 đến ngày 20~8-1952), Chính phủ chỉ nhận ruộng hiến của những người có thừa ruộng. Còn đối với những người chỉ đủ hoặc thiếu ruộng nhưng đã hiến ruộng thì Chính phủ sẽ trả lại. Chính phủ cũng quyết định không nhận ruộng hoang, chỉ nhận ruộng cày cấy được và giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính các địa phương được quyền nhận ruộng hiến. Số ruộng hiến sẽ được chia cho dân cày thiếu ruộng trong thời hạn 10 năm.

Trong kháng chiến, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện chính sách tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian để tạm cấp cho nông dân. Tuy nhiên, trong khi xác định và thực hiện chính sách tịch thu loại ruộng đất này lại chưa có sự thống nhất giữa các địa phương về quan niệm. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 9-10-1952, Bộ Canh nông ra Thông tư số 22 - CN - RĐ, giải thích rõ thế nào là ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian. Thông tư còn nhấn mạnh các địa phương phải tạm cấp hết số ruộng đất này cho dân cày, không được giữ lại cho chính quyền, đoàn thể. Thời hạn tạm cấp là 10 năm và chính quyền địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ dân nghèo về giống, vốn, dụng cụ để họ sản xuất có kết quả trên ruộng đất được tạm cấp.

Ngày 14-12-1952, Liên bộ Canh nông - Nội vụ - Tư pháp ra thông tư giải thích thêm về thể lệ sử dụng ruộng đất "vắng chủ” để Uỷ ban kháng chiến hành chính các liên khu và Hà Nội áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương mình.

Từ nhiều nguồn khác nhau, số ruộng đất được tạm cấp, tạm giao cho nông dân lao động chiếm một diện tích khá lớn. Theo số liệu thống kê ở 3.035 xã ở miền Bắc, việc chia ruộng đất cho nông dân đạt được kết quả như sau: - Số ruộng đất của thực dân Pháp đã được tịch thu chia cho nông dân là 26.800 ha.

- Số ruộng đất của địa chủ được đem chia cho nông dân là 156.600 ha.

- Số ruộng đất tịch thu của nhà chung đem chia cho nông dân là 3.200 ha.

- Số ruộng đất công và nửa công được chia là 289.300 ha.

Đến năm 1953, địa chủ chiếm 2,3% dân số và chỉ còn chiếm 18% tổng số ruộng đất. Nông dân lao động chiếm 92,5% dân số và nắm trong tay 70,7% tổng số ruộng đất.

Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước cải cách ruộng đất, do việc thực hiện một cách có hệ thống những cải cách dân chủ, trong nông thôn đã có những chuyển biến khá lớn về chế độ sở hữu ruộng đất cũng như về quan hệ các giai cấp. Sự chiếm hữu ruộng đất của thực dân, địa chủ đã bị thu hẹp rất nhiều. Trong khi đó quyền sở hữu ruộng đất của nông dân được mở rộng, đời sống của nông dân được cải thiện từng bước, xu hướng trung nông hoá xuất hiện ở nông thôn.

Sự chuyển biến đó khẳng định đường lối tiến hành cải cách, dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến, đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi không có hại cho sự đoàn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

Từ năm 1953, cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn cuối cùng với những tháng lợi to lớn trên.các mặt trận. Đảng và Chính phủ chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất.

Tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 để kiểm điểm việc thi hành chính sách ruộng đất trong quá trình kháng chiến và đề ra 5 công tác chính trong năm 1953 là: Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đẩy mạnh công tác chỉnh quân, tăng cường công tác kinh tế tài chính, công tác vùng sau lưng địch; trong đó công tác chính số một là phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Hội nghị thông qua bản Dự thảo cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.

Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban tháp hành Trung ương Đảng và Hội nghị đại biểu toàn quốc của đảng thông qua Cương lĩnh ruộng đất; đồng thời quyết định tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Tháng 12-1953, tạt kì họp lần thứ 3, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất.

Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, đợt 1 cuộc phát động quần chúng giảm tô được thực hiện trong 22 xã thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV Đến tháng 9-1954, chúng ta đã tiến hành 5 đợt giảm tô trong 830 xã ở miền Bắc.

Cùng với giảm tô, từ 25-11-1953, cải cách ruộng đất được thực hiện thỉ điểm trong 6 xã thuộc huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Đến tháng 5-1954, đợt 1 cải cách ruộng đất được tiến hành trong 47 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và 6 xã thuộc tỉnh Thanh Hoá.

Cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiếp tục thực hiện trên quy mô rộng lớn ở miền Bắc sau khi hoà bình lập lại. Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm như đấu tố cả những địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng; quy nhầm một số nông dân, cán bộ, bộ đội, đảng viên thành địa chủ.

Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Đảng và Chính phủ phát hiện và có chủ trương, biện pháp sửa sai ngay khi kết thúc cải cách. Nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn.

Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến đã từng bước xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan hệ sản xuất đã quá lạc hậu, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân. Thông qua đó, nông dân càng tích cực đẩy mạnh sản xuất, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp kháng chiến.

Cùng với nông nghiệp, các ngành sản xuất công nghiệp vượt qua mọi khó khăn để bảo đảm nhu cầu của kháng chiến.

Công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được các loại vũ khí mới (súng SKZ, súng phóng bom, súng Badôka, súng cối...).

Trong những năm 1951-1953, từ Liên khư IV trở ra, chúng ta sản xuất được 1.310 tấn vũ khí đạn dược.

Ngành công nghiệp cơ khí sản xuất máy công cụ và tư liệu sản xuất được chú trọng và phát triển, phục vụ cho nhu cầu sản xuất cũng như đời sống của nhân dân, phá tan âm mưu phong toả của địch. Bên cạnh hàng chục nhà máy cơ khí quốc doanh, còn có hàng nghìn cơ sở cơ khí nhỏ của tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng vạn sản phẩm công cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, các địa phương trong cả nước đều tích cực đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho cán bộ, bộ đội và nhân dân.

Các tỉnh Liên khu IV mở thêm nhiều xưởng sản xuất giấy, xà phòng, xưởng dệt, phát triển các khung dệt gia đình, khuyến khích nghề ươm tơ, dệt lụa. Liên khu V mở rộng diện tích trồng bông, phát triển mạnh nghề dệt lụa, dệt vải. Các tỉnh ở Nam Bộ tiếp tục phát triển nghề dệt vải, chiếu, làm nước mắm, làm đường, xà phòng, sản xuất giấy gòn, giấy sáp và nhiều thứ thuốc chữa bệnh...

Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ thực hiện chủ trương tăng thu giảm chi, thống nhất quản lí tài chính để tránh lạm phát, giữ giá hàng, đấu tranh kinh tế với địch, mở mang mậu dịch đối ngoại; chấn chỉnh công tác tài chính, ngân hàng và phát hành giấy bạc mới, thành lập mậu dịch quốc doanh.

Ngày 1-5-1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 13/SL về cải cách chế độ đảm phụ, bãi bỏ các thứ đóng góp cũ như thuế công lương, thuế điền thổ, bãi bỏ việc mua thóc định giá và đặt ra thuế nông nghiệp thu bằng thóc. Thuế nông nghiệp được đề ra theo nguyên tắc đảm bảo cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, phù hợp với khả năng đóng góp của mỗi tầng lớp ở nông thôn, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, thống nhất và đơn giản chế độ đảm phụ cho dân, thực hiện đóng góp công bằng. Từ năm 1951 đến năm 1954, từ Liên khu IV trở ra, Nhà nước thu được 1.322.620 tấn thóc thuế nông nghiệp. Với biểu thuế luỹ tiến, chúng ta đã giảm nhẹ phần đóng góp của nông dân lao động.

Thắng lợi của việc thực hiện thuế nông nghiệp là thắng lợi rất căn bản của ta về kinh tế. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuất được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhà nước đã tập hợp những số liệu dầu tiên về dân số, diện tích, sản lượng của từng địa phương làm cơ sở để chủ động xây dựng kế hoạch kinh tế kháng chiến. Qua chỉ đạo tổ chức thực hiện thuế nông nghiệp, bộ máy kinh tế của Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn.

Cùng với việc thống nhất các đảm phụ ở nông thôn và thuế nông nghiệp, ngày 22-7-1951, Chính phủ ra sắc lệnh bãi bỏ thúc môn bài, thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp và các thứ thuế gián thu hiện hành, đặt thuế công - thương nghiệp và thuế hàng hoá. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ban hành hai bản điều lệ tạm thời về thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá.

Các bản điều lệ quy định thể thức tính và thu thuế theo các nguyên tắc: 1) Động viên đóng góp theo khả năng của các ngành công thương nghiệp: 2) Khuyến khích những hoạt động công thương có lợi cho sản xuất, cho nhân dân và cho công cuộc kháng chiến kiến quốc; 3) Thực hiện đóng góp hợp lí và giản tiện.

Chính sách thuế nhập khẩu, thuế sát sinh... cũng được ban hành.

Ngành thuế được xây dựng để phụ trách các thứ thuế thu bằng tiền.

Các chi sở thuế được thành lập. Nhờ đó, số thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá thu bằng tiền trong 5 tháng cuối năm 1951 tăng gấp 6 lân so với 6 tháng đầu năm 1.

Ngày 6-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hoà sự lưu thông tiền tệ; quản lí ngân quỹ quốc gia, quản lí ngoại tệ, quản lí kim dụng bằng các thể lệ hành chính, đấu tranh tiền tệ với địch. Đến ngày 10-6-1951, Chính phủ phát hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng ra đời cùng với giấy bạc Ngân hàng Việt Nam đã khẳng định nền tài chính của một quốc gia độc lập. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra dời đã góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, đẩy mạnh kháng chiến.

Mậu dịch Quốc doanh cũng được thành lập theo Sắc lệnh 22/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 14-5-1951, nhằm thực hiện nhiệm vụ cung cấp hàng hoá cần thiết cho kháng chiến và đời sống nhân dân, phục vụ sản xuất, quản lí thị trường, tổ chức trao đổi hàng hoá với các nước bạn; đồng thời đấu tranh kinh tế với địch.

Ngày l-7-1951, những chi điếm mậu dịch đầu tiên được tổ chức ở thị xã Thái Nguyên, Tuyên Quang. Mậu dịch bán hàng nội hoá với giá rẻ hơn cho nhân dân, gây được ảnh hưởng tốt trong quần chúng. Mậu dịch đã cung cấp 35% nhu yếu phẩm cho bộ đội.

Từ sau chiến thắng Biên giới, con đường thông thương giữa nước ta với quốc tế được mở rộng, nên hoạt động ngoại thương có bước phát triển mới. Giá trị hàng xuất khẩu năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950.

Nhờ chính sách kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp phát triển, chính sách thuế mới công bằng, hợp lí, quản lí tài chính chặt chẽ, cho nên giá cả thị trường từng bước được ổn định, thu chi trong ngân sách dần dần cân bằng (đến năm 1953, số thu đã vượt chi 16%), nạn lạm phát được khắc phục.

Những kết quả trên mặt trận kinh tế, tài chính đã góp phần quyết định cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.

Về chính trị

Để có hậu phương vững mạnh về mọi mặt, phải lấy xây dựng chính trị làm nhiệm vụ hàng đầu. Sự vững chắc của hậu phương phụ thuộc trước hết vào sự giác ngộ cách mạng, sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; ở chế độ ưu việt, uy tín và năng lực hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Sự vững mạnh về chính trị vừa là nền tảng, vừa là đòn bẩy để nay dựng hậu phương vững mạnh.

Với quan điểm đó, trong kháng chiến, Đảng và Chính phủ rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ và quyết tâm kháng chiến.

Chính phủ có nhiều biện pháp để kiện toàn bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân các cấp theo nguyên tắc thực sự dân chủ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiện toàn các cơ quan Nhà nước, trước hết là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp các cơ quan kinh tế, công an. Các cơ quan chính quyền được tổ chức, sắp xếp lại biên chế cho phù hợp theo phương hướng tinh giản, gọn và có hiệu quả. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã được bầu lại. Trong năm 1952, một số nơi đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã khoá III, đồng thời kiện toàn Uỷ ban kháng chiến hành chính theo tinh thần các thông tư, sắc lệnh của Chính phủ.

Trên cơ sở kiện toàn Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp được củng cố, đặc biệt là cấp Liên khu.

Chính quyền cấp cơ sở cũng được xây dựng gọn nhẹ, thu hút thêm những thành phần cơ bản trong nhân dân lao động tham gia.

Củng cố và tăng cường chính quyền cấp xã là công việc được Chính phủ quan tâm đặc biệt, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong quá trình xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước nói chung. Chính phủ đã có nhiều sắc lệnh, nghị định, thông tư về kiện toàn, củng cố chính quyền cấp xã.

Ngày 23-3-1951, Bộ Nội vụ ra Thông tư số 62 về "Kế hoạch củng cố chính quyền cấp xã", làm cho chính quyền cấp xã thực sự trong sạch và vững mạnh. Thông tư chỉ rõ: Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tham dự chính quyền, tham gia ý kiến vào công việc chính quyền, song về thực tế, không thể cùng tham gia trong các cơ quan chính quyền, do đó công dân có quyền bầu một số người thay mặt mình ở những cơ quan ấy. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan chính quyền tối cao quyết định mọi công việc của xã. Hội đồng nhân dân tự chọn một số uỷ viên vào Uỷ ban kháng chiến hành chính để thi hành những nghị quyết của mình. Do vậy, Uỷ ban kháng chiến hành chính là ban chấp hành của Hội đồng nhân dân, quyền chấp hành đều tập trung vào Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Giúp việc cho Uỷ ban kháng chiến hành chính xã có văn phòng và các bộ phận chuyên môn.

Đầu tháng 11-1951, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị tổng kết củng cố xã xây dựng Đề án củng cố xã và trình Hội đồng Chính phủ thông qua tháng 12-1951. Từ sau đó, công tác củng cố chính quyền cấp xã tiếp tục được đẩy mạnh. Ngày 14-6-1952, Chính phủ ra Sắc lệnh số 95/SL quy định số lượng, thể lệ bầu cử và chỉ định Uỷ ban kháng chiến hành chính xã.

Nhờ tập trung củng cố cấp xã, nhiều nơi đã có thể bỏ được cấp thôn, tạo điều kiện củng cố các đoàn thể quần chúng, cải tiến lề lối làm việc, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo điều hành mọi mặt công tác kháng chiến, kiến quốc ở cơ sở.

Việc chấn chỉnh tổ chức chính quyền các cấp đã tạo nên những chuyển biến mới cả về tổ chức và lề lối làm việc, phát huy được tinh thần làm chủ và khí thế hăng hái tham gia kháng chiến của mọi tầng lớp nhân dân.

Các cơ quan chuyên môn cũng được củng cố. Ngày 10-10- 1950, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 438 về việc tổ chức trong phạm vi cả nước Ban công an xã. Ban công an xã trực thuộc hệ thống Việt Nam công an vụ dưới quyền điều khiển của Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và chấp hành mệnh lệnh của cấp trên theo ngành dọc, có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của nhân dân, giữ gìn an ninh và vệ sinh công cộng trong xã, ngăn ngừa và bài trừ các tệ nạn xã hội.

Ngày 3-1-1952, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 9 về việc thành lập Công an huyện trên phạm vi cả nước. Công an huyện có nhiệm vụ bảo vệ trị an, đề phòng phản gián, bảo vệ các cơ quan ở huyện, điều tra tội phạm theo yêu cầu của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, huyện và toà án nhân dân; tổ chức và hướng dẫn công an xã phát triển công an nhân dân.

Ngày 15-10-1952, Hội đồng Chính phủ đã họp bàn về việc thành lập Bộ Công an. Ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 141/SL về việc đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ thành Thứ Bộ Công an, đặt dưới quyền lãnh đạo của một Thứ trưởng. Thứ Bộ Công an có nhiệm vụ chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ quân đội nhân dân và các đoàn thể nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, biên giới, chống đặc vụ và gián điệp... Đến tháng 8-1953, Hội đồng Chính phủ quyết định đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an.

Từ đây, Bộ Công an tách khỏi Bộ Nội vụ, trở thành một Bộ của Chính phủ.

Trên lĩnh vực tư pháp, chúng ta đấu tranh chống những khuynh hướng sai lầm; sửa đổi lại thành phần các cấp toà án. Do vậy, ngành Tư pháp được chấn chỉnh và củng cố, trở thành một công cụ chuyên chính sắc bén của chính quyền dân chủ nhân dân.

Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và mở rộng. Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội thống nhất hai Mặt trận Việt Minh và Liên Việt được triệu tập.

Thành công của Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt là một sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của khối đoàn kết toàn dân: "... rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân và nó có một cái tương lai "Trường xuân bất lão " .

Tiếp theo Đại hội Đảng và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt theo sáng kiến của Đảng ta, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia được tổ chức vào ngày 11-3-1951, gồm đại biểu Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Khơ me Itxarắc, Mặt trận Lào Itxala. Hội nghị nhất trí khẳng định: Ba dân tộc có chung một kẻ thù là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ . Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định thành lập khối Liên minh Việt - Miền - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Sự ra đời Liên minh Việt - Miền - Lào là một thắng lợi mới của chiến lược đại đoàn kết ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương, đoàn kết các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ thế giới của Đảng và Chính phủ ta, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết quốc tế nhằm đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi.

Về văn hoá - giáo dục - y tế.

Đảng và Chính phủ rất chú trọng xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng, khai thác vốn văn hoá, văn nghệ dân tộc; tổ chức và hướng dẫn văn nghệ sĩ đi vào thực tế sản xuất và chiến đấu, phục vụ kháng chiến. Ngày 6-6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Nha Thông tin trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Cuối năm này, Hội đồng Chính phủ chủ trương kiện toàn Ban Văn hoá xã hội, thành lập Nha Văn nghệ, đặt Quốc gia ấn Cục vào Ban Văn xã.

Ngày 24-2-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 83/SL hợp nhất Nha Thông tin và Vụ Văn học nghệ thuật thành Nha Tuyên truyền và Văn nghệ trực thuộc Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 15-3-1953, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14/SL thành lập Quốc doanh Điện ảnh và Chiếu bóng Việt Nam. Cùng với sự ra đời của ngành Điện ảnh, các đội chiếu bóng được thành lập. Các bộ phim Việt Nam kháng chiến, Việt Nam trên đường thắng lợi được xây dựng.

Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Ngày 24-2-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhắc nhở Nha Bình dân học vụ phải làm cho tất cả đồng bào Việt Nam từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc, biết viết và lúc đó mới là thắng lợi hoàn toàn trên mặt trận diệt dốt. Đến năm 1952, khoảng 14 triệu người đã thoát nạn mù chữ.

Phong trào bổ túc văn hoá được đẩy mạnh. Khắp các cơ quan, các khu vực dân cư, các đơn vị bộ đội và dân công đều tổ chức các lớp học bổ túc văn hoá. Đến tháng 9-1953, trong các vùng tự do đã có 10450 lớp bổ túc văn hoá, với 335.946 học viên. Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và địa phương được thành lập.

Giáo dục phổ thông phát triển mạnh theo hướng cải cách giáo dục năm 1950. Tháng 7-1951, Đại hội Giáo dục toàn quốc được tổ chức. Đại hội xác định phương châm giáo dục là phục vụ kháng chiến, chủ yếu là tiền tuyến; phục vụ nhân dân, chủ yếu là công - nông - binh.

Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, ngày 30-10-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Thông tư số 49/TT-TKV quy định tổ chức trường phổ thông 9 năm. Các cấp quản lí giáo dục phổ thông trung học được quy định rõ: ở Trung ương có Nha Giáo dục phổ thông (được thành lập trên cơ sở hợp nhất Nha Tiểu học và Nha Trung học); ở Liên khu là Khu Giáo dục phổ thông; ở tỉnh là Ty Giáo dục phổ thông.

Ngày 3-11-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra nghị định bãi bỏ các Hội giúp việc giáo dục tỉnh và xã; tổ chức tại mỗi tỉnh một Tiểu ban giáo dục có nhiệm vụ nghiên cứu chủ trương, chính sách giáo dục của Chính phủ và tình hình giáo dục địa phương để định ra chương trình, kế hoạch giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương. Thành phần Tiểu ban giáo dục gồm đại biểu Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, Trưởng ty giáo dục phổ thông, Trưởng ty bổ túc văn hoá.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục, Nhà nước coi trọng việc chấn chỉnh hệ thống các trường sư phạm. Theo hướng ấy, Bộ Quốc gia Giáo dục ra một loạt nghị định về củng cố, sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp nói chung và trường sư phạm nói riêng.

Nghị định số 233/NĐ (1-10-1951) sáp nhập Trường Sư phạm sơ cấp Việt Bắc vào Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số 234/NĐ (1- 10-1951) thành lập Khu học xá trung ương gồm 3 trường: Trường Khoa học cơ bản, Trường Sư phạm cao cấp, Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số 276/NĐ (11-10-1951) bãi bỏ Ban Sư phạm Đại học Khoa học và thành lập Trường Sư phạm cao cấp để đào tạo giáo viên cấp III Cho Các trường phổ thông; Nghị định số 277/NĐ (11-10-1951) mở lớp Dự bị đại học một năm vào đầu năm học 1952 tại Liên khu IV, gồm hai ban: Ban Khoa học xã hội (các môn học: Triết học và chính trị, Văn chương Việt Nam, Sinh ngữ, Lịch sử văn học thế giới, Sử, Địa, Kinh tế) và Ban Khoa học tự nhiên (các môn học: Toán, Lí, Hoá, Vạn vật).

Tính đến năm 1953, trong các vùng tự do có 769.640 học sinh phổ thông từ cấp I đến cấp III. Năm 1954, số học sinh tăng lên 1132.196 người. Trong khoảng ba năm (1951 - 1953), Nhà nước đã đào tạo được 7.000 cán bộ kĩ thuật. Đó là không kể hàng ngàn cán bộ, sinh viên tốt nghiệp đại học và học sinh tốt nghiệp phổ thông được đưa đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc. Trong cả nước đã hình thành 3 trung tâm đại học và cao đẳng: Việt Bắc, Khu IV và Khu học xá Trung ương (l) .

Công tác chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.

Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng rộng khắp. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động rộng rãi trong toàn dân. Nạn đói và bệnh dịch được đẩy lùi về cơ bản. Nếp sống mới nảy nở, ngày càng lan rộng khắp các vùng tự do.

Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục đã làm tăng thêm sức mạnh của hậu phương kháng chiến. Đây chính là một nhân tố rất căn bản, có tính quyết định hắng lợi của quân đội ta trên mặt trận quân sự.

 

V- Những Chiến dịch giữ vững và phát triển quyền chủ động đánh địch trên chiến trường

Sau chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, quân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính, liên tục mở các chiến dịch tiến công và phản công lớn. Phưng hướng của ta mở chiến dịch là nhằm vào trung du và đồng bằng, trước mắt là đánh trung du.

Trung du và đồng bằng lúc này bao gồm 15 tỉnh, thành, rộng khoảng 21.000 km2 và 8.000.000 dân (không kể Hoà Bình, Phú Thọ), hình thành một khu tam giác với nhiều điểm tập trung đông dân cư.

Trung du là tuyến chính diện của địch đối mặt với căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc; là dải đất tiếp giáp giữa vùng tạm bị địch chiếm với vùng tự do Việt Bắc. Miền này bao gồm phần đất của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Nam Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên, Hòn Gai, kéo dài từ tây sang đông khoảng gần 300 km.

Sau khi ta giải phóng biên giới, mở rộng vùng tự do ở phía bắc Bắc Bộ, vùng trung du trở thành tuyến phòng thủ chủ yếu của địch, cùng với tuyến sông Đáy ở phía tây - nam tạo thành một vành đai bao quanh đồng bằng, ngăn chặn mọi sự xâm nhập của ta vào đồng bằng Bắc Bộ.

Đối với địch, trung du là bàn đạp thuận tiện để chúng tập trung lực lượng, tổ chức tiến công, uy hiếp Việt Bắc. Sau đồng bằng, trung du cũng là nơi đông dân nhiều của, có khả năng cung cấp cho nhu cầu chiến tranh. Mặt khác, trung du là nơi có phong trào kháng chiến mạnh, lực lượng vũ trang địa phương phát triển và đã từng lập nhiều thành tích trong chiến đấu. Nếu đánh vào trung du, ta sẽ thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của địch, phá kế hoạch củng cố và bình định đồng bằng của chúng, làm thất bại âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".

Xuất phát từ tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược về nhiều mặt trên đây, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Trung du (mang mật danh là chiến dịch Trần Hưng Đạo), nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng khu lương thực, phát triển chiến tranh du kích, tranh thủ thời gian phá kế hoạch củng cố của địch, tạo điều kiện mới để tiêu diệt địch nhiều hơn nữa. Hướng chính của chiến dịch là vùng trung du, từ Việt Trì đến Bắc Giang, trong đó hướng tiến công chủ yếu nhằm vào khu vực Vĩnh Yên, Phúc Yên. Vùng duyên hải Đông Bắc và Liên khu III là những hướng phụ có nhiệm vụ phối hợp trực tiếp trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 đại đoàn (Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312), 5 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đại đội pháo binh, 2 đại đội công binh, 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương. Cùng với đồng bào một số tỉnh Việt Bắc, hàng vạn dân công chuyên chở hàng trăm tấn gạo ở vùng địch hậu trung du vượt qua mạng lưới đồn bốt địch đày đặc ra phục vụ tiền tuyến. Tổng cộng toàn chiến dịch, ta đã huy động 27.658 dân công thường trực, 272.259 dân công từng đợt và chuẩn bị được 4.960 tấn lương thực, 416 tấn đạn dược, vũ khí. Trải qua 23 ngày đêm chiến đấu (từ 25-12-1950 đến 17-1-1951), quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 địch, diệt 30 vị trí và 40 tháp canh, thu nhiều vũ khí các loại.

Qua chiến đấu ở trung du, bộ đội ta có bước trưởng thành mới.

Lần đầu tiên tác chiến ở một vùng đồi núi thấp nơi địch có điều kiện phát huy thế mạnh, chiến dịch Trung du là một mốc quan trọng, đánh dấu một bước tiến vững chắc của bộ đội ta về kĩ thuật. Bên cạnh những thắng lợi và ưu điểm, ta cũng có một số khuyết điểm và hạn chế. Nhiệm vụ mở rộng khu lương thực mới đạt được ở mức thấp. Việc phát động chiến tranh du kích làm chậm, chưa tận dụng được tất cả khả năng mới do thắng lợi của chủ lực tạo nên. Địch bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, nhưng ta cũng có nhiều thương vong sau chiến dịch Trung du, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng (26-2- 1951), Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch Đường 18

(mang mật danh là chiến dịch Hoàng Hoa Thám), nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích.

Hướng chính của chiến dịch là Đường 18, hai hướng phụ là Vĩnh Yên và Liên khu III.

Trên hướng Đường 18, chúng ta sử dụng 2 đại đoàn (Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312), 2 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch. Phục vụ chiến dịch có hơn 57.000 dân công, 2.280 tấn lương thực, thực phẩm; 226 tấn đạn dược. Phương châm lác chiến là đánh điểm diệt viện.

Trải qua 14 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 23-3 đến 7-4- 1951), tính chung cả mặt trận chính và mặt trận phối hợp, quân và dân ta đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt trên 3.900 địch; diệt và bức địch rút 133 vị trí, tháp canh; bắn rơi 1 máy bay; phá huỷ 1 xe tăng, 45 xe cơ giới 1. Bộ đội ta hi sinh 600 người, bị thương trên 1700 người .

Đánh giá kết quả chiến dịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: Trong chiến dịch này, ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, gây được ảnh hưởng chính trị và học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu về tác chiến với binh lực lớn ở một chiến trường xa và đánh vào một trung tâm của địch. Tuy nhiên, ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta cũng bị tiêu hao.

Sau chiến dịch Đường 18, tiếp tục kế hoạch tiến công địch ở Trung du và đồng bằng, ngày 20-4-1951, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công ở khu vực Hà - Nam - Ninh, lấy tên là chiến dịch Quang Trung, nhằm tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phá tan khối ngụy quân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển, giành lại kho người, kho của ở đồng bằng. Trung ương Đảng nhấn mạnh: Chiến dịch Quang Trung là một chiến dịch đầu tiên được mở ở đồng bằng, cách xa căn cứ địa chính; địa thế có nhiều khó khăn cho ta, thuận lợi cho địch. Trong chiến dịch này, ta không những phải thắng về quân sự, mà còn phải thắng cả về chính trị; cần phải hết sức tranh thủ dân; chú trọng việc vận động ngụy binh, vận động đồng bào công giáo, thi hành chính sách của Đảng trong các vùng có thể giải phóng.

Lực lượng sử dụng trong chiến dịch gồm 3 đại đoàn bộ binh (Đại đoàn 308, Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320), 5 đại đội pháo binh, một số đơn vị công binh, trinh sát và lực lượng vũ trang địa phương. Nếu so với địch, về lực lượng bộ binh, ta nhiều hơn hai lần, nhưng địch có ưu thế tuyệt đối về cơ giới, máy bay, tàu chiến và do điều kiện cơ động thuận lợi, chỉ trong thời gian ngắn, chúng có thể điều thêm một số binh đoàn cơ động đến, nhanh chóng làm thay đổi lực lượng.

Với tinh thần Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, nhân dân các địa phương, từ Việt Bắc đến Liên khu III, Liên khu IV, đều hăng hái đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch. Chỉ trong thời gian ngắn, riêng tỉnh Hà Nam đã huy động được 160 tấn gạo và 130 con trâu, bò, lợn. Nhân dân ba tỉnh huy động trên 100.000 dân công làm nhiệm vụ vận tải, dẫn đường, chuyển thương, phục vụ thương binh, bắc cầu, đào đắp công sự; huy động 4.400 thuyền, mảng chở bộ đội qua sông trong suốt chiến dịch 1.

Sau 24 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 28-5 đến 20-6-1951), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 4.000 địch, diệt và bức địch rút hơn 30 vị trí, phá huỷ hơn 30 xe lội nước, thu hơn 1.000 vũ khí và phương tiện chiến tranh. Tuy nhiên, lực lượng của ta cũng bị tổn thất nặng.

Tính chung trên các chiến trường toàn quốc trong 6 tháng đầu năm 1951, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm bị thương gần 40.000 địch. Riêng ở Bắc Bộ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 32.000 tên địch (trong ba Chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà - Nam - Ninh, số địch bị diệt là 17.000 tên). Ta thu gần 10.000

súng các loại.

Tuy nhiên, vì địa bàn ba chiến dịch trên không lợi cho ta, mà có lợi cho địch trong việc phát huy ưu thế về binh khí kĩ thuật và cơ động, nên kết quả chiến đấu bị hạn chế. Địch bị thiệt hại nặng, nhưng ta cũng bị tiêu hao lớn; có chiến dịch không đạt được mục tiêu đề ra. Cả ba chiến dịch đã gây trở ngại cho địch trong việc thực hiện kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, nhưng sức chiến đấu của bộ đội ta cũng bị giảm sút. Ta không phát huy được thế chủ động chiến lược giành được từ chiến dịch Biên giới; chưa phá được phòng tuyến của địch, chưa làm thay đổi được cục diện chiến trường đồng bằng Bắc Bộ.

Về phía thực dân Pháp, sau một thời gian đối phó với các cuộc tiến công của ta ở Trung du, Đường số 18 và Hà - Nam - Ninh, chúng tăng cường chiến tranh tổng lực, đánh phá dữ dội cơ sở kháng chiến trong vùng tạm chiếm, cướp đoạt tài sản, giành giật nhân lực, vật lực, chống lại chiến tranh du kích, gây cho ta nhiều khó khăn mới. Các căn cứ du kích và khu du kích của ta ở đồng bằng bị đánh phá nặng nề; nhiều vùng bị chúng chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh của địch được dựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng tạm bị địch chiếm gặp rất nhiều khó khăn.

Trước tình hình trên, nhằm phá tan âm mưu thâm độc của địch, đưa những hoạt động kháng chiến ở vùng sau lưng địch, nhất là chiến tranh du kích vượt qua khó khăn để phát triển đi lên, Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ ngày 27-9 đến 5-10-1951) tập trung bàn về "nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích". Hội nghị nêu rõ: Công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du kích là một công tác rất quan trọng; đề ra mục đích, phương châm và nhiệm vụ của toàn bộ công tác ở vùng sau lưng địch là nhằm vào vận động quần chúng đấu tranh, vận động binh lính địch, thực hành chiến tranh du kích, phá chính sách bình định của Pháp và chính quyền tay sai.

Hội nghị chia vùng sau lưng địch thành vùng tạm chiếm và vùng du kích, hoạt động theo hai phương châm khác nhau: Vùng tạm bị địch chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế làm chính; vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế.

Vùng sau lưng địch lúc này có ba công tác chính: Dân vận, vận động ngụy binh và đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong đó dân vận là gốc của mọi công tác.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai đánh dấu bước phát triển của Đảng về công tác chỉ đạo mặt trận vùng sau lưng địch. Nghị quyết Hội nghị có tác dụng hướng dẫn kịp thời cuộc đấu tranh gay go, ác liệt của nhân dân vùng sau lưng địch chống lại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của kẻ thù.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ hai, quân và dân trong cả nước đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, chuyển hướng mạnh mẽ công tác trong vùng sau lưng địch, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giành thắng lợi mới.

Trong khi đó, từ cuối năm 1951, sức ép từ nhau phía một lần nữa lại đè nặng lên Chính phủ Pháp. Cùng với gánh nặng chiến tranh ở thuộc địa, Chính phủ Pháp phải góp 10 sư đoàn cho khối Bắc Đại Tây Dương (NATO). Điều này càng làm cho tình hình kinh tế - xã hội của nước Pháp trở nên căng thẳng. Sức ép về chính trị của nhân dân Pháp cũng như của các phe phái trong Quốc hội đã lên đến tột đỉnh.

Trong hoàn cảnh ấy, những người cầm đầu Chính phủ Pháp muốn có một thắng lợi quân sự vang dội để vừa xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần binh sĩ, vừa để tranh thủ viện trợ của Mĩ . Việc vạch ra kế hoạch đánh chiếm Hoà Bình của Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương chính là nhằm mục đích ấy.

Tỉnh Hoà Bình có 15 vạn dân, nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc Bộ. Thị xã Hoà Bình là trung tâm chính trị của đồng bào dân tộc Mường, cách Hà Nội 75 km. Sau thất bại trên mặt trận Biên giới thu - đông 1950, quân Pháp đã phải rút khỏi Hoà Bình. Một vùng tự do rộng lớn ở phía tây, cửa ngõ nối liền vùng tự do với đồng bằng Bắc Bộ qua Chợ Bến, qua sông Đà, đã được giải phóng. Trong gần một năm sau đó, nhân lực, vật lực từ các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh vượt qua Đường 6

được chuyển ra phía bắc chi viện cho các chiến dịch lớn.

Đánh chiếm Hoà Bình, Đờ Lát hi vọng lập lại hành lang đông - tây ngăn chặn con đường giao thông của kháng chiến từ Bắc vào Nam, buộc chủ lực của đối phương phải tham chiến; qua đó giành thắng lợi quân sự để ổn định quân ngụy và dựng lại Xứ Mường tự trị.

Sau khi củng cố thế phòng ngự, tăng cường lực lượng và đẩy mạnh bình định, ngày 9-11-1951, Đờ Lát sử dụng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh (gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàu thuyền) mở cuộc hành quân Tuylíp (Tulipe), tiến công Chợ Bến, cắt đường di chuyển của bộ đội ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng.

Ngày 14-11, chúng mở cuộc hành quân Lôtuýt (Lotus) đánh chiếm Hoà Bình. Trong ngày 15-11, chúng đã hoàn thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hoà Bình - Đường 6 - Sông Đà - Ba Vì. Ngay sau khi đặt chân lên Hoà Bình, địch đã xây dựng hệ thống phòng ngự dã chiến với 28 cứ điểm lớn nhỏ bằng đất, gỗ, có hàng rào dây thép gai bao bọc.

Mỗi cứ điểm có từ 1 - 2 đại đội bộ binh chốt giữ. Lần đầu tiên trên chiến trường Đông Dương, một hình thức tổ chức chiếm đóng quy mô tương đối lớn xuất hiện ở khu vực Hoà Bình - Sông Đà - Đường 6.

Ngày 24-11-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 22 về "Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hoà Bình của địch".

Sau khi vạch rõ âm mưu của địch, Chỉ thị khẳng định: Địch đánh ra Hoà Bình là một cơ hội tốt để ta diệt địch, bởi vì lực lượng chúng bị phân tán trên một tuyến dài đi sâu vào vùng tự do của ta, vốn không lợi cho chúng về địa hình. Hơn nữa, đây cũng là một dịp rất thuận lợi cho ta đẩy mạnh chiến tranh nhân dân ở vùng sau lưng địch, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán lực lượng của địch.

Trên cơ sở đó, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch đánh địch trên cả hai mặt trận: chính diện (Hoà Bình) và sau lưng địch (trung du và đồng bằng Bắc Bộ).

Lực lượng tham gia đánh địch ở mặt trận Hoà Bình có 3 đại đoàn (308, 312 và 304); ở mặt trận sau lưng địch có 2 đại đoàn (316 và 320). Ngoài ra, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, du kích cũng được điều động phối hợp.

Chỉ sau mấy ngày địch chiếm đóng, thị xã Hoà Bình bị vây chặt trong một vòng đai lửa của quân ta, khiến địch phải núp kín dưới hầm. Trên phòng tuyến sông Đà, nhiều đoàn tàu chiến của địch bị đánh đắm. Các vị trí kiên cố nhất, như Ba Vì, Đá Chông, Tu Vũ lần lượt bị quân ta tiêu diệt.

Trải qua hơn hai tháng chiến đấu (từ ngày 10-12-1951 đến 25-2- 1952), trên cả hai mặt trận, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt khoảng 22.000 địch. Riêng mặt trận vùng sau lưng địch, tá đã tiêu diệt 15.000 tên; san phẳng, bức hàng và bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh của địch (chiếm 2/3 tổng số đồn bốt, tháp canh). Ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực Hoà Bình - Sông Đà rộng 2.000 km2, với 15 vạn dân; làm chủ hoàn toàn phía tây đồng bằng Bắc Bộ; bảo vệ toàn vẹn con đường giao thông chiến lược của kháng chiến từ Việt Bắc đến Nam Bộ; phá tan âm mưu thâm độc chia rẽ đồng bào các dân tộc và chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch ở Hoà Bình. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hàm Đông. Phần lớn kết quả bình định đồng bằng Bắc Bộ trong cả năm 1951 của địch bị phá vỡ. Âm mưu phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, giành lại quyền chủ động chiến lược của địch bị đập tan.

Chiến thắng Hoà Bình là chiến thắng quân sự tình nhất của ta từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950. Nó đã làm tan vỡ toàn bộ kế hoạch quân sự của Tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi, cắt đứt mọi hi vọng giành quyền chủ động của quân Pháp từ đó về sau.

Chiến thắng Hoà Bình có ý nghĩa chiến lược lớn cả về chính trị và quân sự. Với chiến thắng này, ta đã đánh bại kế hoạch quân sự được chuẩn bị khá công phu của địch, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động về chiến dịch, dẫn đến phòng ngự bị động về chiến lược; chấm dứt thời kì địch có thể dễ dàng thực hiện các cuộc hành quân đánh chiếm sâu vào các vùng giải phóng. Vùng căn cứ du kích, khu du kích liên hoàn, rộng lớn được hình thành, gồm các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch bị giáng một đòn mạnh.

Chiến thắng Hoà Bình phản ánh kết quả của Đảng và Chính phủ trong chính sách xây dựng hậu phương kháng chiến, chính sách xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Đây cũng là thành công nổi bật của Đảng ta trong việc chỉ dạo tiến công địch trên cả hai hướng chiến lược chủ yếu, kết hợp chặt chẽ mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch.

Chiến thắng Hoà Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, phát triển lực lượng kháng chiến, mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ, làm thay đổi cục diện chiến trường theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta.

Sau khi thất bại trong chiến dịch Hoà Bình, thực dân Pháp huy động lực lượng chủ lực mở các cuộc càn quét ở vùng chúng tạm chiếm trong suốt 5 tháng liền, với hi vọng cứu vãn nguy cơ ở đồng bằng.

Quy mô các cuộc càn quét lần này rất lớn. Riêng trong chiến dịch Mécquya (Mercure - Thuỷ ngân) (từ 25-3 đến 26-4-1952) đánh vào vùng tây nam Thái Bình, thực dân Pháp sử dụng tới 5 binh đoàn (tương đương 20 tiểu đoàn bộ binh), 2 tiểu đoàn cơ giới, 40 khẩu pháo, 6 tàu chiến, 40 ca nô và một số quân dù bao vây càn quét khu vực bốn huyện: Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải và một phần huyện Vũ Tiên, rộng khoảng 700 km2, nơi đặt cơ quan của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 và Tỉnh uỷ Thái Bình.

Trước âm mưu và hành động của địch, chúng ta tổ chức lực lượng chiến đấu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống bắt thanh niên vào lính, mở rộng cơ sở kháng chiến. Tính chung, trên chiến trường cả nước, từ sau chiến dịch Hoà Bình đến hết mùa hè năm 1952, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 20.000 tên địch; san bằng, bức rút, bức hàng trên 900 vị trí; thu nhiều vũ khí, quân trang.

Cùng với việc tổ chức chống địch càn quét, bảo vệ vùng tự do, chúng ta tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân, tăng cường lực lượng kháng chiến về mọi mặt.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3, ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Khai mạc lớp học, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Trung ương rất mong rằng, trong cuộc chỉnh huấn này, các đồng chí cố gắng thi đua học tập rèn, luyện để trở thành những cán bộ gương mẫu, xứng đáng với lòng trông mong tin cậy của Đảng, của Chính phủ, của quân đội và của nhân dân, trở nên những chiến sĩ đắc lực nhất trong sự nghiệp xây dựng Đảng và giúp Đảng đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công".

sau chỉnh huấn chính trị mùa hè năm 1952, quân đội ta tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị. Đến đây, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 316, 320 và 325), 2 trung đoàn bộ binh (148 và 246), 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351). Liên khu III có Trung đoàn 46. Việt Bắc có Trung đoàn 238. Liên khu V có trung đoàn 803. Nam Bộ có Tiểu đoàn 302, Tiểu đoàn 307.

Tại các đơn ví, chỉnh huấn quân sự được đẩy mạnh. Thông qua chính huấn, trình độ chiến thuật, kĩ thuật của bộ đội được nâng cao theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu sắp tới.

Công tác xây dựng hậu phương kháng chiến được đẩy lên một bước. Phong trào sản xuất và tiết kiệm nhanh chóng được toàn dân hưởng ứng mạnh mẽ.

Để động viên các tầng lớp nhân dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Hội nghị thi đua toàn quốc, toàn quân.

Ngày 1-5-1952, Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất khai mạc, gồm có 154 đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang.

Đại hội long trọng tuyên dương 7 anh hùng: Cù Chính Lan (liệt sĩ), Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.

Phong trào thi đua yêu nước như một luồng sinh khí mới cổ vũ quân và dân ta nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt khó khăn gian khổ, tiếp tục lập công trên các mặt trận.

Trong khi cuộc vận động chỉnh Đảng, chỉnh quân đang diễn ra sôi nổi, thì Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh đã hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến Thu - Đông 1952 với hướng tiến công chính là Tây Bắc Bậc Bộ. Đây là nơi địch sơ hở, nhưng lại rất hiểm yếu, khi bị tiến công, nhất định chúng sẽ đưa lực lượng từ nơi khác đến đối phó.

Tây Bắc là chiến trường rừng núi rộng lớn nằm ở phía tây bắc Bắc Bộ nước ta. Phía tây là biên giới Việt - Lào, giáp hai tỉnh Phong Xa Lì và Sầm Nưa. Phía đông giáp căn cứ địa Việt Bắc. Phía bắc là biên giới Việt - Trung, đối diện với tỉnh Lào Caitỉnh Vân Nam. Phía nam là tỉnh Hoà Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên khu III, Liên khu IV.

Miền Tây Bắc gồm 4 tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu với dân số khoảng 440.000 người. Đường vào Tây Bắc chỉ có hai trục lớn: Đường 41 từ Hoà Bình đi Mộc Châu; Đường 13 từ Yên Bái vào Nghĩa Lộ.

Ở vùng Tây Bắc, sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), tàn quân Pháp vẫn lén lút hoạt động. Sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng chính quyền nhân dân còn rất non yếu, cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng hầu như chưa có, thực dân Pháp dựa vào bọn phản động trong thổ ti, lang, đạo và quân Tưởng, đưa tàn quân từ Trung Quốc về thiết lập các vị trí chiếm đóng. Vì vậy, Tây Bắc sớm trở thành vùng địch tạm chiếm.

Thực hiện chủ trương chuyển hướng tiến công chiến lược, từ tháng 4-1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị tiến hành công tác chuẩn bị chiến dịch, với quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng Tây Bắc.

Lực lượng địch ở Tây Bắc có 8 tiểu đoàn và 43 đại đội, 11 khẩu pháo được bố trí phân tán trên 14 cứ điểm.

Lực lượng chủ lực của ta tham gia chiến dịch có 3 đại đoàn (308, 312 và 316), 6 đại đội sơn pháo 75 mm (24 khẩu), 3 đại đội cối 120 mm (12 khẩu)...

Lực lượng vật chất đảm bảo cho chiến dịch có khoảng 9.000 tấn lương thực, thực phẩm; 120 tấn vũ khí, đạn dược và dụng cụ thuốc men. Số dân công được huy động khoảng 194.400 người, chủ yếu làm nhiệm vụ vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến. về nhân lực, vật lực, Trung ương giao cho các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên trực tiếp phục vụ hướng Nghĩa Lộ; các tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Nam... trực tiếp phục vụ hướng Đường 41 đi Sơn La.

Chiến dịch Tây Bắc nhằm thực hiện 3 mục tiêu: tiêu diệt địch, giải phóng đất, tranh thủ dân; trong đó, mục tiêu quan trọng hơn cả là tiêu diệt địch.

Trong khi bộ đội ở Tây Bắc tiến vào vị trí tập kết thì ở đồng bằng Liên khu III, quân ta tổ chức hoạt động nghi binh, làm lạc hướng phán đoán của địch.

Ngày 14-10-1952, quân ta nổ súng tiến công Nghĩa Lộ, mở màn chiến dịch. Trải qua hai tháng chiến đấu, đến ngày 10-12- 1952, chiến dịch kết thúc thắng lợi.

Trên cả hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, quân ta đã tiêu diệt và làm bị thương 13.000 dịch (riêng Tây Bắc là 6.029 tên); phá vỡ toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền; đập tan âm mưu lập "Xứ Thái tự trị" của địch; giải phóng 8/10 đất đai vùng Tây Bắc, gồm toàn bộ tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), 4 huyện phía nam tỉnh Lai Châu và 2 huyện thuộc tỉnh Yên Bái, rộng 28.500 km2, với 250.000 dân. Thế uy hiếp của địch đối với Việt Bắc từ phía tây và đối với Thượng Lào từ phía đông bị phá vỡ. Chiến thắng Tây Bắc làm cho binh lính địch thêm hoang mang, lo sợ. Các nhà chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương cảm thấy bế tắc, bi quan trước sự tiến triển của cuộc chiến tranh ngày càng bất lợi cho chúng.

Chiến thắng Tây Bắc có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự, chính trị và kinh tế. Với chiến thắng Tây Bắc, hình thái chiến trường thay đổi theo hướng có lợi cho ta. Ta đã giữ vững và từng bước mở rộng quyền chủ động về chiến lược; các lực lượng vũ trang nhân dân của ta tích luỹ thêm kinh nghiệm tác chiến trên quy mô lớn, sự hiệp đồng tác chiến cao giữa các binh chủng trên chiến trường rừng núi; đặc biệt, thông qua chiến đấu và chiến thắng, bộ đội chủ lực của ta quen dần cách đánh hệ thống cứ điểm mạnh. Sau chiến thắng Tây Bắc, nhân dân các dân tộc Tây Bắc ra sức xây dựng. củng cố vùng mới giải phóng; truy lùng thổ phỉ, biệt kích, khắc phục sản xuất. Các đại đoàn chủ lực bước vào đợt huấn luyện, tập đánh cứ điểm mạnh, chuẩn bị cho đợt tác chiến mới.

Trong không khí chiến thắng trên chiến trường cả nước, những ngày cuối tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4. Hội nghị nhận định: Bộ đội ta tiến bộ nhiều về tinh thần, về chiến thuật cũng như kĩ thuật, trình độ tác chiến ngày một nâng cao ở cả địa hình đồng bằng, trung du và miền núi.

Hội nghị đề ra phương châm tác chiến: Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động ở sau lưng địch.

Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trong năm 1953 là: tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng kháng chiến. Sau chiến thắng Tây Bắc, cách mạng Việt Nam có điều kiện phối hợp với cách mạng Lào hơn trước. Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt, Tổng Quân uỷ đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho phối hợp với quân và dân Lào mở chiến dịch Thượng Lào, tiến công Sầm Nưa nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai; phối hợp với nhân dân và quân giải phóng Pathét Lào chống kẻ thù chung, giúp Chính phủ kháng chiến Lào xây dựng những căn cứ du kích, mở rộng ảnh hưởng trong nhân dân để đưa cuộc kháng chiến Lào phát triển đi lên. Đồng thời, phá thế bố trí chiến lược của địch ở miền Bắc Đông Dương, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, ngăn chặn âm mưu củng cố Tây Bắc và bình định đồng bằng của địch.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch Thượng Lào gồm có 4 đại đoàn (308, 316, 312 và 304) và Trung đoàn 148. Ngoài ra, con có 7 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn súng phòng không 12,7mm, 1 tiểu đoàn thông tin. Ngày 3-4-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi thư động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch: "Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn.

Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình..."

1. Theo kế hoạch tác chiến, hướng chính của Chiến dịch là Sầm Nưa; hướng phối hợp là lưu vực sông Nậm Hu và Xiêng Khoảng.

Ngày 9-4-1953, các đơn vị tham gia chiến dịch được lệnh vượt biên giới đến vị trí tập kết.

Ngày 12-4-1953, phát hiện các đơn vị đi đầu của quân ta đang tiến về hướng Sầm Nưa, Tướng Xalăng đã vội ra lệnh cho toàn bộ quân Pháp bỏ thị xã rút chạy. Trước tình hình đó, bộ đội ta kịp thời chuyển phương án vận động từ xa đến bao vây, đánh địch trong công sự vững chắc, sang phương án vận động truy kích tiêu diệt địch, bắt đầu từ ngày 13-4-1953.

Trải qua hơn một tháng vận động truy kích tiêu diệt địch, ngày 18-5-1953, chiến dịch Thượng Lào kết thúc. Trong chiến địch này, ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 2.800

địch (bằng 115 tổng số lực lượng địch ở Lào), giải phóng trên 4.000 km2, gồm toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phong Xa Lì (chiếm 1/5 diện tích Bắc Lào) với hàng chục vạn dân.

Với chiến thắng Thượng Lào, lực lượng kháng chiến của bạn mở rộng được địa bàn đứng chân. Từ nay, hậu phương kháng chiến của cách mạng Lào được nối thông với vùng tự do của Việt Nam. Lực lượng vũ trang Pathét Lào được tôi luyện và trưởng thành.

Thắng lợi của Chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần quốc tế vô sản, của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa nhân dân hai nước Việt - Lào.

Về phía ta, thế chiến lược mới do chiến thắng Thượng Lào tạo ra, một lần nữa củng cố thêm quyền chủ động chiến lược của quân đội ta không chỉ ở chiến trường chính (Bắc Bộ), mà cả trên toàn miền Bắc Đông Dương.

Đối với thực dân Pháp, sau những thất bại liên tiếp ở Tây Bắc, Thượng Lào, hệ thống bố trí chiến lược của chúng co lại một cách nguy hiểm. Trên chiến trường Bắc Đông Dương, lực lượng cơ động của Pháp bị căng mỏng và phân tán, buộc chúng phải làm nhiệm vụ đóng giữ những vị trí chiến lược. Kế hoạch nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược của Đờ Lát, được Xalăng dốc sức thực hiện, đến đây hoàn toàn phá sản.

Trong tình thế khủng hoảng, bị động về quân sự, Tướng Xalăng bị triệu hồi. Chính phủ Pháp cử Tướng Nava sang thay làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đem theo một kế hoạch mới hòng giành một thắng lợi quyết định về quân sự, kết thúc cuộc chiến tranh. Thực dân Pháp lại bước vào một kế hoạch phiêu lưu mới ở Đông Dương trong tình hình có nhiều khó khăn.

Tóm lại, trong hơn hai năm, kể từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, quân và dân ta đã trải qua một thời kì chiến đấu rất sôi động, hoàn thành xuất sắc ba nhiệm vụ chiến lược: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, phá kế hoạch bình định của địch; tạo ra những tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt của cuộc kháng chiến.

Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, quân và dân ta từng bước phát triển thế tiến công với quy mô ngày càng lớn bằng cả chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy để giành ưu thế quân sự, giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược.

Trên đà thắng lợi của chiến dịch Biên giới, quân đội ta liên tiếp mở các chiến dịch tiến công và phản công, cùng với hàng chục đợt hoạt động trên khắp các chiến trường toàn quốc, ở trung du, đồng.bằng, miền núi. Các chiến dịch tiến công, phản công của ta trong thời kì này đều phát triển với quy mô ngày càng lớn, trên những địa bàn khá rộng và trong thời gian dài. Bộ đội ta tiến bộ rõ rệt về trình độ đánh công kiên và đánh vận động.

Với thắng lợi của các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, căn cứ địa Việt Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào được đánh thông, tạo thành một thế trận liên hoàn; hậu phương kháng chiến không ngừng được mở rộng. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương ngày càng phát triển mạnh mẽ.

(Nguồn: Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000 - TS. Nguyễn Xuân Minh)