Sơ đồ vị trí 12 sứ quân

Nguyễn Khoan (chữ Hán: 阮寬; 906 - 967) hay Nguyễn Thái Bình (阮太平) là một sứ quân nổi dậy trong thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 10, cát cứ vùng Tam Đái (Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh vùng chiếm đóng để xây dựng lực lượng và phát triển kinh tế nên được dân bản xứ tôn xưng là Quảng Trí Quân, nghĩa là vị vua có đức lớn tài cao, rộng hiểu biết và đầy tình bác ái, biết canh tân mỹ tục1 cai trị triều đình nhỏ ở Tam Đái. Hiện một số nơi ở Vĩnh Phúc còn đền thờ phụng. Năm 967 ông bị Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh dẹp, phát triển thêm một bước trong quá trình thống nhất, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.

Xuất thân

Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Phù Liệt, Thanh Trì, Hà Nội thì họ là cháu của Nguyễn Hãng – một danh tướng Bắc triều. Con của Nguyễn Hãng là Nguyễn Nê đem quân sang nước Việt đòi họ Khúc triều cống.2 Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh ra ba con trai. Sau khi Nguyễn Nê chết ba anh em tranh nhau giữ binh quyền, theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải, nhiều quân quyền. Họ cùng trở thành thủ lĩnh các sứ quân cát cứ vào khoảng năm 945.3 . Nguyễn Khoan là anh cả, sinh năm 906, Nguyễn Thủ Tiệp sinh năm 908 và Nguyễn Siêu sinh năm 9244

Sứ quân

Dưới thời Ngô Quyền, Nguyễn Khoan là một hào trưởng ở vùng Tam Đái. Về quân sự, ông xây dựng thủ phủ trên gò Biện Sơn (Độc Nhĩ Sơn) và đóng đồn ở gò Đồng Đậu, chiêu mộ và huấn luyện dân binh để xây dựng lực lượng quân sự dùng khi hữu sự5 . Tuy nhiên, ông cũng chú ý đến phát triển kinh tế, chủ trương khuyến khích và chăm sóc nghề nông, canh tân tập tục nông thôn. Với sự giúp đỡ của hai tùy tướng tài và hai người vợ tài giỏi, ông đã xây dựng được vùng Tam Đái được thái bình thịnh trị, nhân dân ấm no vui vẻ. Khu vực Tam Đái xưa vốn nổi tiếng trù phú với câu ca "Nhất Tam Đái, nhị Khoái Châu". Nay có Đồng Đậu là một di chỉ cư trú của người Việt cổ lớn nhất ở trung tâm vùng tam giác châu thổ Bắc Bộ, phạm vi diện tích phân bố rộng nhất, tầng văn hoá dày nhất, chứa đựng khối lượng hiện vật khảo cổ rất lớn và phong phú.6

Năm 944, Ngô Quyền qua đời. Dương Tam Kha cướp ngôi nhưng triều đình rối loạn và mất dần khả năng kiểm soát đối với các địa phương. Lực lượng thôn Đường Lâm của Ngô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của ông là những thế lực chống đối đầu tiên bị triều đình họ Dương điều quân tiến đánh.

Năm 965, Ngô Xương Văn đem quân đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn nỏ trúng, tử trận. Các nhà nghiên cứu xác định thôn Đường tức Đường Lâm, thuộc phạm vi kiểm soát của sứ quân Ngô Nhật Khánh, còn thôn Nguyễn Gia Loan thuộc phạm vi kiểm soát của sứ quân Nguyễn Thái Bình, tức Nguyễn Khoan.7

Trong nỗ lực cuối cùng, Ngô Xương Xí lên kế thừa ngôi vị, nhưng bất lực trước thời cuộc nên tự lui về giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa), tự coi mình là một sứ quân. Một số tướng lĩnh, thổ hào địa phương cũng xây dựng thế lực cát cứ, hình thành Loạn 12 sứ quân.

Vốn gắn bó với vùng Tam Đái, lại có nhiều công ơn với nhân dân trong vùng, thời loạn lạc, Nguyễn Khoan dần xây dựng thế lực riêng, nghiễm nhiên trở thành một sứ quân mạnh. Ông tự xưng Nguyễn Thái Bình, tước Quảng Trí Quân.

Truyền thuyết ở xã Tứ Yên, Lập Thạch cho biết khu vực này thường xuyên là địa bàn tranh chấp của 2 sứ quân Nguyễn Khoan và Kiều Công Hãn, nơi đây diễn ra nhiều trận đánh bất phân thắng bại. Lịch sử hình thành làng Thổ Tang (Vĩnh Tường) cho biết: Để củng cố và phát triển thế lực, thủ lĩnh Nguyễn Khoan, lúc bấy giờ hùng cứ suốt một dải từ Bạch Hạc qua Thổ Tang đến huyện Yên Lạc, đã lệnh cho một số làng thuộc khu vực mình cai quản phải di chuyển đến nơi khác, do đó cư dân Thổ Tang lúc đó phải di chuyển ra cánh đồng Ma Trám lập thành làng mới. Tại đây dân làng đã dựng lên ngôi đình đầu tiên, nay nơi đó chỉ còn lại dấu tích gọi là bãi Nền Đình. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn cát cứ 12 sứ quân, lập nên triều đình Đinh thống nhất, các làng thiên di trước được lệnh trở về chỗ cũ, do đó dân cư sống ở cánh đồng Ma Trám đã quay trở lại xóm Cả. Từ xóm Cả, làng Thổ Tang tiếp tục phát triển mở rộng ra khu Đông, khu Bắc, khu Nam và Phương Viên ngày nay.8

Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của ông tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu. Tuy nhiên, theo thần tích làng Vĩnh Mỗ (huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nguyễn Khoan được Đinh Bộ Lĩnh tha chết và ông đã xuống tóc đi tu. Vì thế mà chùa Biện Sơn ngày nay cũng thờ đại sư Nguyễn Khoan.

Theo thần tích Đình Mai Phúc, Gia Thuỵ, Gia Lâm, Hà Nội thì hai vị thành hoàng là 2 anh em Xuân Vinh và Luận Nương đã tập hợp trai tráng trong làng thành đội dân binh và đã từng đánh bại quân của Nguyễn Khoan. Theo thần tích đình Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định thì tướng Phạm Hạp chính là người đánh bại và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái.

Được dân thờ tự

Xét trên lợi ích quốc gia, việc cát cứ của sứ quân Nguyễn Khoan đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Nhưng có thể thấy trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, việc ông có thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền và duy trì trật tự tại Tam Đái để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất của họ là điều cần thiết và thuận lòng dân, dù việc này không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một thời đoạn ngắn, điều đó lý giải vì sao ông vẫn được nhân dân trong vùng chiếm đóng lập đền thờ.

Hiện nay, chỉ còn đền Gia Loan ở thị trấn Yên Lạc và đình Lác ở làng Giã Bàng, xã Tề Lỗ (đều thuộc huyện Yên Lạc) là nơi thờ riêng ông. Ngoài ra còn có chùa Biện Sơn, cũng thuộc thị trấn Yên Lạc, thờ Nguyễn Khoan, được nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Làng Vĩnh Mỗ có lệ đánh cá thờ, mở vào ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm. Ở Ao Náu bên xứ gò Đậu - dân làng chài con to nhất dâng cúng sứ quân Nguyễn Khắc Khoan là Thành hoàng của làng.

Phả lục đền Nguyễn Gia Loan (đền thờ Nguyễn Sứ Quân) chép: “Trước doanh trại của ông (nay là gò chùa Biện) có một khu đồng. ông thường tích nước thả cá. Hàng năm cứ đến ngày mùng 8 tháng Giêng đầu xuân là ngày sinh nhật ông. ông mời bô lão trong xóm ấp, sai quân đánh cá, thiết tiệc mừng xuân. Đêm đến lại dâng bày hoa quả bánh trái, mừng vui tưởng niệm công đức cù lao của cha mẹ để lại. Ngày hôm sau lại mổ bò giết trâu, mời phường múa hát, cùng với nhân dân mở hội mừng xuân”.9

Đền Gia Loan là nơi lưu giữ được nhiều yếu tố liên quan đến Nguyễn Khoan cũng như những ghi nhận công đức của ông. Nơi đây còn lưu giữ được cuốn ngọc phả viết năm Lê Vĩnh Hựu thứ 6 (1752)10 . Nơi đây còn có cả bức đại tự Vĩnh Khang Tiện Dân (mãi mãi yên lành khoẻ mạnh cho mọi người dân), được treo trong đền Gia Loan cùng câu đối ca tụng công đức to lớn của ông đối với nhân dân vùng Tam Đái.

Tam Đái tiểu triều đình, cát cứ nam thiên thân vũ trụ.
Ngũ trang lưu thắng tích, đạt bào tây địa chấn sơn hà.

Tạm dịch:

Tiểu triều đình nhỏ ở Tam Đái, phân chia cương vực chiếm giữ trời Nam.
Năm trang còn giữ được di tích đẹp cùng trong đất miền Tây vững bền sông núi.

Hiện nay, đền thờ Nguyễn Khắc Khoan là địa chỉ nằm trong tam giác gắn kết với Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu và chùa Biện Sơn thành một quần thể di tích đặc trưng vùng sông Loan - núi Biện hấp dẫn các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, mỹ thuật và khách tham quan du lịch về vùng đất Yên Lạc nói riêng và Vĩnh Phúc nói chung.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Hào khí miền đất yên vui
  2. ^ Xanh thắm Ném Đông
  3. ^ Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Thần phả Nguyễn Siêu.
  4. ^ Nguyễn Bạt Tụy 1954: Tên người Việt Nam. - In trong: tập kỷ yếu hội Khuyến Học Việt Nam, Sài Gòn, tr49-50.
  5. ^ Sách Đại Việt Sử ký toàn thư, bản Ngoại kỷ, có ghi chú: "Tam Đái nay ở vùng huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Nay ở xã Minh Tâm, huyện Vĩnh Lạc có di tích thành cũ, và ở xã Vĩnh Mỹ (cùng huyện) có đền thờ của sứ quân Nguyễn Khoan."
  6. ^ Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu
  7. ^ Xem bài: "Về quê hương của Ngô Quyền" - Trần Quốc Vượng - Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số 101, tháng 8/1967, tr. 60-62
  8. ^ LỊCH SỬ THỊ TRẤN THỔ TANG
  9. ^ (Trích dịch ngọc phả còn ở đền Gia Loan).
  10. ^ Một số di tích lịch sử của huyện Yên Lạc

(Nguồn: Wikipedia)