Lạng Sơn
Tỉnh
Logo Lang Son.PNG
Biểu trưng
Mau Son.JPG
Núi Mẫu Sơn
Địa lý
Tọa độ: 21°51′14″B 106°45′40″Đ / 21,853851°B 106,761189°ĐTọa độ: 21°51′14″B 106°45′40″Đ / 21,853851°B 106,761189°Đ
Diện tích 8.320,8 km²
Dân số (2013)  
 Tổng cộng 751.200 người3
 Mật độ 90 người/km²
Dân tộc Việt, Tày, Dao, Nùng
Hành chính
Quốc gia Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam
Vùng Đông Bắc
Tỉnh lỵ Thành phố Lạng Sơn
 Chủ tịch UBND Phạm Ngọc Thưởng
 Chủ tịch HĐND Hoàng Văn Nghiệm
 Bí thư Tỉnh ủy Trần Sỹ Thanh
Phân chia hành chính 1 thành phố và 10 huyện
Mã hành chính VN-09
Mã bưu chính 24xxxx
Mã điện thoại 205
Biển số xe 12
Website http://www.langson.gov.vn/

Lạng Sơn còn gọi là xứ Lạng là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Việt Nam.

Địa lý

Vị trí

  • Có vị trí 20°27'-22°19' vĩ Bắc và 106°06'-107°21' kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng: 55 km, Phía đông bắc giáp Sùng Tả (Quảng Tây, Trung Quốc): 253 km, Phía nam giáp tỉnh Bắc Giang: 148 km, Phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh: 49 km, Phía tây giáp tỉnh Bắc Kạn: 73 km, Phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên: 60 km.
  • Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng huyện Cao Lộc và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có một cửa khẩu quốc gia: Chi Ma (Huyện Lộc Bình)và 10 lối mở biên giới với Trung Quốc.

Địa hình

sông Kỳ Cùng và tuyến phố nằm bên sông

Đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh.

Dạng địa hình phổ biến ở Lạng Sơn là núi thấp và đồi, độ cao trung bình 252 m so với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện Hữu Lũng và nơi cao nhất là núi Mẫu Sơn 1541m. Mẫu Sơn cách thành phố Lạng Sơn 31 km về phía đông, được bao bọc bởi nhiều ngọn núi lớn nhỏ, thỉnh thoảng có tuyết rơi vào mùa đông.

Khí hậu, thời tiết

Khí hậu của Lạng Sơn thể hiện rõ nét khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền Bắc Việt Nam. Khí hậu phân mùa rõ rệt, ở các mùa khác nhau nhiệt độ phân bố không đồng đều do sự phức tạp của địa hình miền núi và sự biến tính nhanh chóng của không khí lạnh trong quá trình di chuyển ở vùng nội chí tuyến đã gây nên những chênh lệch đáng kể trong chế độ nhiệt giữa các vùng.

  • Nhiệt độ trung bình năm: 17-22 °C
  • Lượng mưa trung bình hàng năm: 1200–1600 mm
  • Độ ẩm tương đối trung bình năm: 80-85%
  • Lượng mây trung bình năm khoảng 7,5/10 bầu trời
  • Số giờ nắng trung bình khoảng 1600 giờ

Hướng gió và tốc độ gió của Lạng Sơn vừa chịu sự chi phối của yếu tố hoàn lưu, vừa bị biến dạng bởi địa hình. Mùa lạnh thịnh hành gió Bắc, mùa nóng thịnh hành gió Nam và Đông Nam. Tốc độ gió nói chung không lớn, trung bình 0,8–2 m/s song phân hoá không đều giữa các vùng trong tỉnh.

Hệ thống sông ngòi

Mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại trung bình đến khá dày, qua địa phận có các sông chính là:

  • Sông Kỳ Cùng Độ dài: 243 km, Diện tích lưu vực: 6660 km², bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1166 m thuộc huyện Đình Lập, sông Kỳ Cùng thuộc lưu vực sông Tây Giang Trung Quốc. Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, do vậy mảnh đất xứ Lạng còn được gọi là "nơi dòng sông chảy ngược".
  • Sông Bản Thí, phụ lưu của sông Kỳ Cùng.Độ dài: 52 km, Diện tích lưu vực: 320 km², bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc Quảng Tây (Trung Quốc) đổ vào bờ phải sông Kỳ Cùng ở xã Khuất Xá huyện Lộc Bình.
  • Sông Bắc Giang, phụ lưu của sông Kỳ Cùng.Độ dài: 114 km, Diện tích lưu vực: 2670 km²,
  • Sông Bắc Khê, phụ lưu của sông Kỳ Cùng, Độ dài: 54 km, Diện tích lưu vực: 801 km²
  • Sông Thương là sông lớn thứ hai của Lạng Sơn, bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước (huyện Chi Lăng) chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang, Độ dài: 157 km, Diện tích lưu vực: 6640 km²
  • Sông Hoá, Độ dài: 47 km, Diện tích lưu vực: 385 km²
  • Sông Trung, Độ dài: 35 km, Diện tích lưu vực: 1270 km²

Các đơn vị hành chính

Lạng Sơn có một 1 thành phố và 10 huyện. Lạng Sơn có 226 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 207 xã, 5 phường và 14 thị trấn

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Lạng Sơn
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Thành phố (1)
Lạng Sơn 87.278 5 phường, 3 xã
Huyện (10)
Bắc Sơn 65.836 1 thị trấn, 19 xã
Bình Gia 52.087 1 thị trấn, 19 xã
Cao Lộc 73.516 2 thị trấn, 21 xã
Chi Lăng 73.887 2 thị trấn, 19 xã
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Đình Lập 26.429 2 thị trấn, 10 xã
Hữu Lũng 112.451 1 thị trấn, 25 xã
Lộc Bình 78.324 2 thị trấn, 27 xã
Tràng Định 58.441 1 thị trấn, 22 xã
Văn Lãng 50.198 1 thị trấn, 19 xã
Văn Quan 54.068 1 thị trấn, 23 xã

Thay đổi hành chính

Hữu Nghị Quan

Sau khi Thăng long thất thủ 1592 nhà Mạc chạy về Cao bằng trong thời gian từ 1593-1677 đã xây dựng thành nhà Mạc tại Lạng sơn để chống lại tiến công của Nhà Lê Trịnh. Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831).

Từ ngày 9 tháng 9 năm 1891 đến ngày 20 tháng 6 năm 1905, là Tiểu quân khu Lạng Sơn thuộc Đạo Quan binh II Lạng Sơn. Sau đó tái lập tỉnh..

Trong kháng chiến chống Pháp, Lạng Sơn thuộc Liên khu Việt Bắc. Năm 1950, tỉnh Lạng Sơn có 9 huyện: Bằng Mạc, Bắc Sơn, Bình Gia, Cao Lộc, Điềm He, Lộc Bình, Ôn Châu, Thoát Lãng, Văn Uyên.

Ngày 1 tháng 7 năm 1956, huyện Hữu Lũng của tỉnh Bắc Giang nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc (được thành lập cùng ngày). Khu tự trị Việt Bắc tồn tại đến ngày 27 tháng 12 năm 1975.

Ngày 16 tháng 12 năm 1964, huyện Điềm He cùng 6 xã của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện mới Văn Quan; huyện Ôn Châu cùng 8 xã còn lại của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện mới Chi Lăng. Đến thời điểm này, huyện Bằng Mạc không còn tồn tại; hợp nhất 2 huyện Văn Uyên và Thoát Lãng thành huyện Văn Lãng.4

Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975 đến ngày 29 tháng 12 năm 1978 nhập với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng, rồi lại tách ra như cũ.

Ngày 29 tháng 12 năm 1978 tái lập tỉnh Lạng Sơn, đồng thời sáp nhập huyện Đình Lập của tỉnh Quảng Ninh về Lạng Sơn vừa tái lập.5

Ngày 17 tháng 10 năm 2002, chuyển thị xã Lạng Sơn thành thành phố Lạng Sơn6 . Như vậy tỉnh Lạng Sơn có 1 thành phố và 10 huyện với tên gọi như hiện nay.

Giao thông

Có quốc lộ 1A, quốc lộ 1B, quốc lộ 31, quốc lộ 279, đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn, đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, sông Kỳ Cùng đi qua.

Dân cư

Một con đường tại trung tâm thành phố Lạng Sơn

Dân số 831.887 người (điều tra dân số 01/04/2009));có 7 dân tộc anh em, trong đó người dân tộc Nùng chiếm 42,97%, Tày chiếm 35,92%,Kinh 16,5%,còn lại là các dân tộc Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, H'Mông...

Kinh tế

Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Lạng Sơn xếp ở vị trí thứ 53/63 tỉnh thành.7

Văn học

Du khách đi qua Hữu Nghị Quan

Lạng Sơn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, được nhắc đến nhiều trong thi ca Việt Nam, ví dụ như bài ca dao truyền khẩu dưới đây

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò.8

Lễ hội

Theo số liệu khảo sát của Sở Văn hóa - Thông tin Lạng Sơn, đến năm 2003, Lạng Sơn có trên 365 lễ hội dân gian với tính chất, quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Các lễ hội tiêu biểu như:9

  • Lễ hội Lồng Tồng: được tổ chức vào ngày 4 tháng giêng âm lịch hàng năm, một trong những lễ hội lớn nhất vùng với nghi lễ tín ngưỡng cầu thành hoàng và thần nông. Qua khảo sát sơ bộ của ngành văn hoá - thông tin Lạng Sơn, toàn tỉnh có khoảng hơn 200 lễ hội Lồng Tồng với quy mô tổ chức theo một thôn, bản, một xã, một khu vực hay vài xã.
  • Lễ hội Bủng Kham: được tổ chức vào ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm ở thôn Nà Phái, xã Đại Đồng, huyện Tràng Định. Tương truyền, Bủng Kham là nơi vui chơi giải trí của thần tiên.
  • Lễ hội Pác Mòng: được tổ chức vào ngày 5 tháng giêng âm lịch hàng năm với quy mô lớn ở thành phố Lạng Sơn. Đình Pác Mòng thờ vua Đinh Tiên Hoàng và các tướng lĩnh nhà Đinh đã từng lên đánh giặc phương Bắc và dẹp loạn biên giới thời xưa. Nhiều đời sau, dân trong vùng tưởng nhớ công lao của triều vua Đinh đã cùng nhau góp tiền của công sức, lập đình thờ phụng.
  • Lễ hội Nàng Hai: được tổ chức vào ngày 4 tháng 2 âm lịch hàng năm ở bản Nà Cạo, xã Chí Minh để cầu khấn các nàng tiên phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa, cầu cho mùa màng tươi tốt bội thu, cuộc sống yên vui.
  • Lễ hội Ná Nhèm là nghi thức, nghi lễ thờ cúng thành hoàng làng gắn liền với sự tích đánh giặc, giữ làng của người Tày (Trấn Yên).
  • Lễ hội đầu pháo Kỳ Lừa: Tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng riêng âm lịch tại đền Tả Phủ, chợ Kỳ Lừa, xã Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn.
  • Lễ hội đền Bắc Lệ là tín ngưỡng thờ Mẫu điển hình, được tổ chức trong vòng 3 ngày từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 9 âm lịch hàng năm. Lễ hội gồm có các phần lễ chính như lễ tắm ngai, lễ chính tiệc, lễ rước. Lễ tắm ngai diễn ra trước lễ rước.

Ảnh

Ghi chú

  1. ^ Đền Ký Cùng nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng và ở ngay đầu cầu Kỳ Lừa, thuộc thành phố Lạng Sơn. Năm 1993, ngôi đền đã được công nhận là di tích cấp quốc gia (1993). Nguồn: Bảng giới thiệu di tích treo tại đền.
  2. ^ Bến đá Kỳ Cùng nằm bên hữu ngạn sông Kỳ Cùng, gần cầu Kỳ Lừa và đối diện với đền Kỳ Cùng. Khoảng năm 1778, đền đã được Đốc trấn Ngô Thì Sĩ liệt là một trong 8 cảnh đẹp của trấn lỵ Lạng Sơn (Trấn doanh bát cảnh). Năm 1993, Bến đá Kỳ Cùng đã được công nhận là di tích cấp quốc gia.

Tham khảo

  1. ^ “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015. 
  2. ^ Quyết định 177-CP năm 1964 về việc điều chỉnh địa giới của một số huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn
  3. ^ Nghị quyết về việc phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới các tỉnh Cao Lạng, Bắc Thái và Quảng Ninh do Quốc hội ban hành
  4. ^ Nghị định 82/2002/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lạng Sơn, thuộc tỉnh Lạng Sơn
  5. ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012. 
  6. ^ Nguồn: [1].
  7. ^ Lễ hội dân gian Lạng Sơn, ngày hội của những truyền thuyết

(Nguồn: Wikipedia)