Tuyên Quang | |||
---|---|---|---|
Địa lý | |||
Tọa độ: 21°49′B 105°13′Đ / 21,817°B 105,217°ĐTọa độ: 21°49′B 105°13′Đ / 21,817°B 105,217°Đ | |||
Diện tích | 119,17 km²1 | ||
Dân số (2010) | |||
Tổng cộng | 110.119 người1 | ||
Thành thị | 59,33% | ||
Nông thôn | 40,67% | ||
Mật độ | 924 người/km² | ||
| |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Tỉnh | Tuyên Quang | ||
Thành lập | 2010: thành phố trực thuộc tỉnh | ||
Chủ tịch UBND | Tô Hoàng Linh | ||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Đình Trung | ||
Bí thư Thành ủy | Nguyễn Văn Sơn | ||
Phân chia hành chính | 7 phường, 6 xã |
Thành phố Tuyên Quang là tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Quang, trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị của tỉnh Tuyên Quang.
Địa lý
Vị trí địa lý: Thành phố nằm hai bên bờ sông Lô, được che chắn bởi các dãy núi cao và xen kẽ nhiều đồi núi thấp. Độ cao trung bình dưới 500m và hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, độ dốc thấp dần dưới 25°. Từ Hà Nội đi lên phía Bắc khoảng 165 km theo quốc lộ 2 có thể tới Thành phố Tuyên Quang (đi đường sơn nam thì chỉ mất 130 km).
Địa giới hành chính: Thành phố được xác định: phía đông, phía bắc, phía tây giáp huyện Yên Sơn; phía nam giáp huyện Sơn Dương. Như vậy, đô thị trong tương lai sẽ có 3 khu chính: khu nội thị, 2 khu đô thị vệ tinh gồm khu du lịch sinh thái nằm ở phía Tây Nam và khu công nghiệp nằm ở phía Nam Thành phố.
Diện tích: Thành phố Tuyên Quang có diện tích 11.917,45 ha đất tự nhiên.
Dân số
Thành phố có 115.241 người (năm 2015)
Khí hậu
Khí hậu của TP Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của lục địa Bắc Á Trung Hoa, có 4 mùa rõ rệt, mùa đông phi nhiệt đới lạnh - khô hạn, mùa hè nóng ẩm-mưa nhiều, mùa xuân và mùa thu ngắn, mang ý nghĩa chuyển tiếp giữa 2 mùa chính là đông và hè. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.295-2.266 mm. Nhiệt độ trung bình 22°-23 °C. Độ ẩm bình quân năm là 85%.
Hành chính
Thành phố có tổng số đơn vị hành chính trực thuộc là 13, trong đó có 7 phường: Hưng Thành, Minh Xuân, Nông Tiến, Phan Thiết, Tân Hà, Tân Quang, Ỷ La và 6 xã: An Khang, An Tường, Đội Cấn, Lưỡng Vượng, Thái Long, Tràng Đà.
Kinh tế
Thành phố là trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị của tỉnh Tuyên Quang. Tính đến đầu năm 2010, toàn Thành phố có 28 hợp tác xã thủ công nghiệp, 391 doanh nghiệp đóng trên địa bàn, trong đó 56 công ty cổ phần, 257 công ty TNHH, 78 doanh nghiệp tư nhân, tổng thu ngân sách nhà nước ước tính gần 160 tỷ đồng. Trên địa bàn Thành phố còn có khu công nghiệp Long Bình An với quy mô 109ha và 2 điểm công nghiệp tập trung tại phường Tân Hà và phường Nông Tiến cùng với một số khu đô thị đã và đang hình thành như khu đô thị Tân Bình (phường Nông Tiến), khu đô thị Tân Phát (phường Ỷ La), khu đô thị Minh Thanh (phường Tân Hà), khu đô thị Đông Sơn (phường Ỷ La và phường Minh Thành).
Lịch sử
Trong quá trình lịch sử, TP Tuyên Quang luôn là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, là thủ phủ của một vùng "An biên" che chắn cho kinh đô Thăng Long về phía bắc.
Sau năm 1954, thị xã Tuyên Quang có 3 phường: Minh Xuân, Phan Thiết, Tân Quang.
Ngày 26 tháng 7 năm 1968, chuyển 4 xã: Ỷ La, Hưng Thành, Nông Tiến, Tràng Đà thuộc huyện Yên Sơn về thị xã Tuyên Quang quản lý.2
Sau năm 1975, thị xã Tuyên Quang có 3 phường: Minh Xuân, Phan Thiết, Tân Quang và 4 xã: Hưng Thành, Nông Tiến, Tràng Đà, Ỷ La.
Những năm 1975-1991, thị xã Tuyên Quang giữ vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tuyên (do hợp nhất 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang).
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Tuyên Quang được tái lập, thị xã Tuyên Quang trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Quang.3
Ngày 3 tháng 9 năm 2008, chuyển 5 xã: An Tường, Lưỡng Vượng, An Khang, Thái Long, Đội Cấn thuộc huyện Yên Sơn về thị xã Tuyên Quang quản lý; chia xã Ỷ La thành 2 phường: Ỷ La và Tân Hà; chuyển 2 xã Hưng Thành và Nông Tiến thành 2 phường có tên tương ứng.4
Ngày 25 tháng 6 năm 2009, thị xã Tuyên Quang được công nhận là đô thị loại 3.
Ngày 2 tháng 7 năm 2010, thị xã Tuyên Quang chính thức trở thành thành phố Tuyên Quang.5
Địa danh - Văn hóa
Di tích thành cổ Tuyên Quang
Được xây dựng vào cuối thế kỷ 16 (thời Nhà Mạc), Thành cổ Tuyên Quang có cấu trúc theo kiểu hình vuông, tường thành dài 275 m, cao 3,5m, dày 0,8m. Tổng diện tích thành cổ là 75.625 m². Ở giữa mỗi mặt thành có một vành bán nguyệt, giữa vành bán nguyệt đó trổ cửa ra vào; trên cửa xây tháp mái ngói dùng làm vọng lâu; bên trong tường có một đường nhỏ đi xung quanh dùng làm nơi tiếp đạn. Ngoài thành là hào nước; gạch xây thành làm bằng thứ đất có quặng sắt rất rắn.
Với địa hình và cấu trúc đó khiến cho thành có một vị trí phòng thủ lợi hại và là vị trí quân sự trọng yếu. Nơi đây đã được chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử hào hùng của nhân dân Tuyên Quang. Di tích còn lại gồm có hai cổng thành ở phía Tây và phía Bắc cùng một số đoạn tường thành.
Thành Tuyên, xây dựng năm Nhâm Tý (1552), thời Nhà Mạc, vị trí: trung tâm thị xã Tuyên Quang, loại di tích kiến trúc: thành lũy kiên cố, chất liệu gạch. Thành xây hình vuông, mỗi bề 275m, cao 3m, dày 0,80m. Giữa mỗi mặt thành có vành bán nguyệt, giữa vành bán nguyệt là cửa, trên cửa xây tháp canh mái ngói. Gạch xây thành là thứ đất có quặng sắt, rất rắn, to và nặng. Đó là đặc trưng kích thước gạch thời Hậu Lê.6
Thời Nguyễn, năm 1844-1845, sửa thành Tuyên Quang. Trước kia, Lê Nguyên Giám và Vũ Doanh Từ, vì không tu sửa thành mà bị tội. Vua cho rằng, Nguyễn Đăng Giai có trách nhiệm kiêm hạt, làm hạ dụ, bắt phải trù tính để tu bổ. Phái 2000 biền binh ở tỉnh Sơn Tây đến ứng dịch. Lãnh binh Nguyễn Trọng Thao đôn đốc công việc. Giai cũng ở lại trông nom. Thành Tuyên Quang nuyên đặt dưới chân núi đất Thổ Sơn, dưới có đá chằng chịt, thợ làm rất khó, trải qua 3 tháng mới xong. Quan quân làm việc đều được thưởng hạng ưu. Đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu đều dài 65 trượng, cao 7 thước 2 tấc xây bằng đá ong và 2 bên tả hữu đều xây 1 cửa nhỏ. Trong thành, chếch hướng bắc là đồi Thổ Sơn, cao 50m, dốc đứng. Từ chân đồi lên đỉnh có 195 bậc.
Từ thời Hậu Lê về sau, các đơn vị quân đội đều đóng trong thành. Thời Lý, Tuyên Quang gọi là Tam Kỳ. (Lái buôn 3 kỳ lui tới). Ngày 31/5/1884, trung tá Duy Sơn (?), đem quân từ Việt Trì, theo sông Lô lên đánh Tuyên Quang. Tại thành Tuyên cũng diễn ra cuộc chiến của quân Lưu Vĩnh Phúc và nghĩa quân do đo đốc Đại chỉ huy chống Pháp. 20/12/1884, thành Tuyên bị vây hãm, cô lập, nhưng không bị chiếm; quanh thành, đào 10 đường hầm, dài 81m, nổ 7 quả mìn, diệt 200 tên địch. 24/8/1945, Việt Minh khởi nghĩa chiếm thành Tuyên. 22/12/1947, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên dương công trạng chiến thắng Thu Đông 47, bên cạnh Thành Tuyên. (Hiện nay còn bia kỷ niệm).
- Ngày 30/8/1991, Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch có quyết định số 1548: "Điều 1, nay công nhận Di tích lịch sử phế tích thành Tuyên Quang (phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Hà Tuyên); điều 2, nghiêm cấm mọi hoạt động xây dựng, khai thác trong những khu vực bảo vệ của di tích đã khoanh vùng..." Thứ trưởng Vũ Khắc Liên.7
- Những năm cuối thế kỷ 20, Tuyên Quang làm cầu Nông Tiến có đường dẫn chạy qua thành Tuyên. Các đoạn đường 17 tháng Tám, Bình Thuận, Lương Sơn Tuyết làm trên những con hào bao quanh thành cổ. Nay chỉ còn lại 2 cổng là Tây Môn (nằm trên ngã tư đường Bình Thuận-Tân Trào) và cổng Nam Môn(nằm cạnh chợ Tam Cờ).
Theo truyền thuyết, ngày xưa, thành xây xong, nhưng mỗi khi mở cổng Nam Môn là lại xảy ra bệnh dịch và hùm beo về quấy nhiễu, nên phải lấp lại, gọi là Cổng Lấp. Dân trong vùng vẫn gọi là Cổng Lấp, không mấy ai gọi Nam Môn.
Di tích Đền Hạ
Được xây dựng vào năm 1738, thời vua Lê Cảnh Hưng (Thời Hậu Lê), thờ Mẫu thần. Đền có mái đao cong duyên dáng với những biểu tượng rồng, phượng đắp nổi trên lớp mái ngói vẩy. Các ngày lễ lớn được diễn ra từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch. Khu đền in bóng bên dòng sông Lô, nơi có khúc sông uốn lượn hình rồng. Di tích mang đậm nghệ thuật kiến trúc tôn giáo. Hiện nay, trong đền còn có nhiều pho tượng cổ có giá trị về mặt nghệ thuật và lịch sử cùng nhiều bức tranh chạm khắc có giá trị nghệ thuật cao.
Hội đua thuyền trên Sông Lô
Tổ chức vào dịp tết Nguyên Đán; là hoạt động phản ánh đời sống sinh hoạt gắn với vùng sông nước của cư dân đôi bờ sông Lô; đồng thời thể hiện tinh thần thượng võ không chịu khuất phục của nhân dân Tuyên Quang trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, với ước muốn chinh phục cải tạo tự nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ giang sơn bờ cõi. Lễ hội được tổ chức vào mùng 4 tết hàng năm.
Lễ hội Đền Hạ
Là tấm lòng thành kính của nhân dân địa phương tưởng nhớ công đức đối với hai vị Ngọc Hân và Phương Hoa công chúa; Lễ hội phản ánh nét đẹp trong văn hoá ứng xử của người Việt, đó là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Lễ hội được tổ chức vào tháng riêng hàng năm.
Lễ hội đường phố
Là hoạt động văn hoá đặc sắc của nhân dân các dân tộc Tuyên Quang với những làn điệu dân ca ngọt ngào, đằm thắm, các điệu múa dân gian nhịp nhàng uyển chuyển trong lung linh sắc màu của đêm rằm trung thu.
Lễ hội đường phố của thành phố Tuyên Quang là một hoạt động văn hóa đặc sắc của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, lễ hội mới được hình thành và phát triển, đây là hoạt động văn hóa hoàn toàn xuất phát từ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Lễ hội diễn ra vào trung thu, với các hoạt động: làm đèn, hình thu các con vật, các địa danh như Thành nhà Mạc, núi Thổ sơn, Lán Nà Nưa...để rước trên các hè phố, bên cạnh đó là hoạt động múa dân gian như đám cưới chuột, múa Lân,... và cả nhảy, múa hiện đại. Hiện nay, đây là hoạt động văn hóa được nhân dân thành phố Tuyên Quang yêu thích và hưởng ứng nhiều nhất.
Chú thích
- ^ a ă Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 02 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ về việc thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang.
- ^ Quyết định 119-CP năm 1968 về việc đặt các xã Ỷ La, Hưng Thành, Nông Tiến và Tràng Đà của huyện Yên Sơn trực thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
- ^ Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 99/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Yên Sơn để mở rộng thị xã Tuyên Quang và thành lập một số phường thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
- ^ Nghị quyết 27/NQ-CP năm 2010 thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang
- ^ Hồ sơ Di tích lịch sử văn hóa và danh lam, do ông Quan Văn Dũng sưu tầm, năm 1990. (ông Dũng là Giám đốc bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, nay đã mất); Sách Đại Nam thực lục chính biên
- ^ Quyết định số 1548/1992, của bộ trưởng bộ VH-TT-TT và DL
(Nguồn: Wikipedia)