Nguyễn Văn Tấn, hay Nguyễn Tấn, là một tên người Việt. Một số nhân vật nổi bật cùng tên như:
- Nguyễn Tấn (?-1871), tự là Tử Vân, võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức.
- Nguyễn Văn Tấn (1941–2007), Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh kiêm Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 9.
- Nguyễn Tấn, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam.
- Nguyễn Tấn, một danh tướng thời Đinh, thế kỷ thứ 10, có công phá thành Bình Kiều, được vua Đinh Bộ Lĩnh phong là Thượng tướng quân.
Nguyễn Tấn sinh ngày 10 tháng 3 năm Nhâm Dần (942) tại trại Âu Hoá nay là xã Nghĩa An huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ ông đã có tư chất thông minh, lại chăm chỉ luyện tập võ nghệ. Năm 966, đất nước xảy ra loạn 12 xứ quân, Nguyễn Tấn đứng ra chiêu mộ được vài trăm trai tráng, thường xuyên luyện tập võ nghệ, đóng quân ngay tại quê hương. Nhờ có đội quân này mà cả một vùng dân cư được yên ổn làm ăn. Ngày 10 tháng 12 năm Đinh Mão (967), sứ quân Kiều Công Hãn bại trận từ Phong Châu (Vĩnh Phúc), bị Nguyễn Bặc đuổi qua vùng Âu Hóa thì Nguyễn Tấn đem quân ra đánh. Phần vì mỏi mệt, đói khát, Kiều Công Hãn đuối thế, bị Nguyến Tấn chém vào cổ, bỏ chạy đến làng Din thì chết. Quân Nguyễn Bặc đuổi đến nơi, Nguyễn Tấn tưởng giặc nên dàn quân ra đánh. Khi Nguyễn Bặc đem lời dụ, Nguyễn Tấn mới biết đó là tướng của Đinh Bộ Lĩnh, liền hạ cờ quy phục. Hai bên hợp quân, mổ trâu, bò ăn mừng. Từ đây, Nguyễn Tấn hết lòng giúp sức cho Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Đất nước thanh bình, Nguyễn Tấn xin phép triều đình về quê sinh sống. Ông chiêu tập nhân dân ở nhiều nơi về đây sinh cơ lập nghiệp, khuyến khích khai phá thêm ruộng đồng, đào sông đắp đường, làm cầu, mở chợ… Ông còn xây dựng một đội quân tinh nhuệ, ngày ngày luyện tập võ nghệ. Từ đó đời sống cư dân trong vùng ngày một an bình thịnh vượng. Hiện nay vẫn còn nhiều dấu tích gắn với thời kỳ hoạt động của ông như: cồn Đôi, cồn Luyện, xóm Trung Quân, xóm Hổ Lửa… Năm Kỷ Mão (978), Nguyễn Tấn nghe tin vua Đinh bị giết hại, ông tập hợp lực lượng, xây thành đắp lũy, sẵn sàng đối phó với biến động. Nhưng do tuổi già sức yếu, lại thêm bệnh nặng nên một thời gian sau ông qua đời vào tuổi 82. Nhân dân trong vùng vô cùng thương tiếc, đã xây dựng ngôi đền thờ phụng ông ở phía bắc của trại quân, cách mộ ông khoảng 100m, tục gọi là đền thờ Đức Thánh Cả.
(Nguồn: Wikipedia)