Ngô Đình Nhu
Ngodinhnhu.jpg
Chức vụ
Thông tin chung
Đảng phái Đảng Cần Lao
Quốc tịch Việt Nam
Sinh 7 tháng 10, 1910
Huế
Mất 2 tháng 11, 1963 (53 tuổi)
Sài Gòn
Ngô Đình Nhu và Lyndon B. Johnson tại dinh Gia Long, Sài Gòn, ngày 12 tháng 5 năm 1961

Ngô Đình Nhu (1910-1963) là một nhà lưu trữ và một chính trị gia Việt Nam. Ông nổi tiếng với danh nghĩa là cố vấn chính trị cho anh mình là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm; tuy nhiên, hầu hết các tài liệu lịch sử đều nhận định ông là kiến trúc sư của mọi chủ trương, chính sách của nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam.1 Ông còn được đánh giá là một nhà lưu trữ xuất sắc, từng làm việc tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (từ năm 1938), từng giữ vai trò Chủ tọa Hội đồng Cứu nguy Châu bản và Cố vấn Kỹ thuật (1942-1944), Phó giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1945), và Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc (từ sau tháng 8 năm 1945).2

Tiểu sử

Giai đoạn trước năm 1945

Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1910 tại làng Phước Quả, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên (nay thuộc phường Phước Vĩnh, thành phố Huế); quê quán ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông là Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái.2

Khác với hai người anh của mình là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm, vốn xuất thân Nho học và ra làm quan cho nhà Nguyễn, Ngô Đình Nhu lại theo Tây học. Năm 1938, ông tốt nghiệp ngành lưu trữ tài liệu cổ (archiviste paléographe) của Trường pháp điển quốc gia (École nationale des chartres) ở Paris, Pháp3 4 5 .

Năm 1938, ông về nước làm việc ở Văn khố Phủ toàn quyền Đông Dương (Hà Nội)4 . Năm 1943, Ngô Đình Nhu chuyển sang làm giám đốc văn khố Tòa khâm sứ Huế. Về sau được văn phòng Nam triều mời giữ chức chủ tịch hội đồng chỉnh đốn châu bản và văn khố nhà Nguyễn 4 Trong thời gian 3 năm, từ 1942 đến 1944, với vai trò Chủ tịch hội đồng cứu nguy châu bản và Cố vấn kĩ thuật, Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần quan trọng vào việc tập trung tài liệu của 5 nguồn (Quốc Sử quán, Tàng Thơ lâu, Nội các, Viện Cơ mật trước đấy và Thư viện Bảo Đại) vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của chính phủ Nam triều.

Giai đoạn 1945-1954

Sau Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Nhu được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện Quốc gia tại Hà Nội (Sắc lệnh số 21, ký ngày 8 tháng 9 năm 1945 của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký), nhưng khi quan hệ giữa Việt Minh và các đảng phái khác theo chủ nghĩa quốc gia xấu đi, hai người anh của ông là Ngô Đình Khôi bị Việt Minh thủ tiêu, Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giam. Ông cũng bị Việt Minh bắt giam sau đó được thả rồi lưu vong sang Lào.[cần dẫn nguồn]

Năm 1948, Ngô Đình Nhu về nước sống ẩn dật ở Đà Lạt và thỉnh thoảng xuống Sài Gòn móc nối thông tin.6 Từ thập niên 1950, ông bắt đầu hoạt động chính trị bằng việc thành lập Liên đoàn Lao động Công giáo.

Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị (personnalisme) đúc kết xu hướng của hai triết gia công giáo Emmanuel Mounier và Jacques Maritain.

Giai đoạn 1954-1963

Năm 1954, khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, ông thành lập Đảng Cần lao Nhân vị, dựa vào một chủ thuyết do ông khởi xướng là học thuyết Cần lao - Nhân vị để hỗ trợ chính quyền của anh ông. Dưới sự giúp đỡ của người Mỹ, Đảng Cần lao Nhân vị phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập một tổ chức có tên là "Thanh niên Cộng hòa", theo mô hình đảng sơ-mi nâu của Adolf Hitler, do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác dành cho phụ nữ có tên là "Phụ nữ liên đới" cũng được thành lập và do vợ ông làm Tổng thủ lãnh. Ông là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược, tổ chức thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp chiến lược từng gây khó khăn cho những người cộng sản miền Nam.

Về danh nghĩa, ông chỉ là một cố vấn chính trị, nhưng hầu hết các tài liệu đều ghi nhận ông là kiến trúc sư của chế độ, là người khởi xướng mọi chủ trương chính sách của nền Đệ Nhất Cộng hòa.1 Ông cũng cho lập và trực tiếp khống chế nhiều cơ quan tình báo và mật vụ (lúc cao trào có tới 13 cơ quan) với những quyền lực to lớn như được quyền bắt giam người không cần xét xử.

Từ năm 1958, Ngô Đình Nhu bắt đầu tổ chức vận chuyển thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn để tiêu thụ một phần tại đây, phần còn lại được vận chuyển sang Marseille, Pháp để có tiền duy trì hoạt động của các cơ quan tình báo và mật vụ dưới quyền ông.7

Tuy nhiên, do tính chất độc tài gia đình trị dẫn đến việc ông bị xem là có trách nhiệm cho sự sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng hòa. Đặc biệt là việc trấn áp Phật giáo trong biến cố Phật giáo, 1963 khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa mất uy tín và bị phân hóa. Ngày 23/8/1963 tướng Lê Văn Kim cho Rufus Phillips, Giám đốc Ủy ban Hoa Kỳ về Phát triển Nông thôn, biết có 1426 tu sĩ Phật giáo bị bắt. Tất cả chất nổ và vũ khí tìm thấy trong các chùa là được gài vào. Dân chúng tin rằng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang giữ trách nhiệm đàn áp Phật tử và đang chuyển dư luận sang chống đối quân đội trong khi quân đội chỉ hành động như con rối trong tay Cố vấn Ngô Đình Nhu, người đã lừa gạt quân đội trong việc ban hành thiết quân luật. Các lãnh đạo quân đội như tướng Tôn Thất Đính và Trần Văn Đôn, không biết gì về các kế hoạch tấn công chùa Xá Lợi và các chùa khác. Chiến dịch đó thực hiện bởi Lực lượng Đặc biệt của Đại tá Lê Quang Tung và cảnh sát dã chiến theo lệnh bí mật của Ngô Đình Nhu. Ngô Đình Nhu hiện nắm quyền kiểm soát, và Tướng Đôn đang nhận lệnh trực tiếp từ ông ta. Nếu tình hình này không sửa chữa và nếu dân chúng không được biết sự thật, quân đội sẽ bị tê liệt một cách nghiêm trọng trong cuộc chiến chống Cộng.8

Anh em Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu bắt đầu bất đồng từ đầu năm 1963. Vì trận thua nặng của quân đội Việt Nam cộng hòa tại trận Ấp Bắc, khi đó tại Nam Việt Nam đã có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ. Giới quân sự Mỹ kinh ngạc và liên tục chê bai khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Hòa và đòi để các tướng Mỹ chỉ huy các cuộc hành quân hỗn hợp. Thượng nghị sĩ Mansfield, người vốn ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm trong nhiều năm trước, đã làm bản phúc trình lên Tổng thống Mỹ với kết luận nghiêm khắc đối với chính phủ Diệm. Ngô Đình Nhu tỏ ra bất mãn về việc chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên quyết định tìm hướng đi mới. Ông có ý định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về nước và tìm cách tiếp xúc với những người cộng sản ở Hà Nội. Người ta đánh giá rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, còn Ngô Đình Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy.9 Ngô Đình Nhu nhận thấy sự đe doạ của người Mỹ đối với anh em ông nên muốn tìm lối thoát và tìm cách bí mật thương thuyết với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hà Nội. Linh mục Cao Văn Luận và giáo sư Bửu Hội đã xác nhận là đã từng thấy Ngô Đình Nhu thổ lộ ý định này.10 Vào tháng 5.1963, tờ Washington Post tiết lộ thông tin từ đại sứ Pháp tại Sài Gòn xác nhận ý định của Ngô Đình Nhu muốn Mỹ rút đi một nửa cố vấn quân sự. Do những ý định mới của Ngô Đình Nhu, Mỹ bắt đầu tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm, cắt một nửa viện trợ cho chính quyền Sài Gòn.11 Tháng 7/1963, đại sứ Mỹ Nolting, người bị xem là quá bao che cho chính quyền họ Ngô, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật giáo, 1963 làm chính quyền Sài Gòn càng lung lay. Người Mỹ đã ủng hộ một số tướng lĩnh Việt Nam cộng hòa lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm.12

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam. Ngày 2 tháng 11 năm 1963, người ta thấy một đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Khi chiếc thiết giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người.

Ông là người có công lao lưu giữ Mộc bản triều Nguyễn. Số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV - Đà Lạt, Lâm Đồng (xưa và nay vẫn là Biệt điện Trần Lệ Xuân 13 - Khu Di tích của TP. Đà Lạt).14

Trích dẫn

Hình ảnh trong văn học và điện ảnh

Hình ảnh ông Ngô Đình Nhu được thể hiện qua một nhân vật trong tiểu thuyết Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên của nhà văn Hữu Mai, và được phác họa qua một nhân vật trong bộ phim Ván bài lật ngửa, kịch bản của Nguyễn Trương Thiên Lý.

Nhận xét

Trong cuộc họp nội các Đảng Cần lao Nhân vị sau khi thành lập chính phủ 1956:

Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn cuối đời, đã có nhận định về Ngô Đình Nhu cũng như so sánh Ngô Đình Nhu với Ngô Đình Diệm như sau:

Thực lực của đảng Cần Lao Nhân Vị - chính đảng do Ngô Đình Nhu lập ra, cũng được Cao Văn Viên nhận xét:

Tác phẩm

  • Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle (Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII), luận văn ở École nationale des chartes, 1938.5
  • Tùng Phong, Chính đề Việt Nam, Nhà xuất bản Đồng Nai, Sài Gòn, 1964. (Có người cho Tùng Phong là Ngô Đình Nhu, cũng có người cho Tùng Phong là Lê Văn Đồng. Hiện nay, ai là tác giả thật sự của Chính đề Việt Nam vẫn chưa được xác định thống nhất.20 21 )
  • Trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 1938 đến giữa năm 1942, cộng tác với Paul Boudet và Rémi Bourgeois biên soạn và xuất bản các tập 2, 3 và 4 của bộ Đông Dương pháp chế toàn tập (Recueil général de la Legislation et de la Règlementation de l’ Indochine).2

Chú thích

  1. ^ a ă Ngô Đình Nhu, một nhà chiến lược trang 6[nguồn không đáng tin]
  2. ^ a ă â Đào Thị Diến. “Ngô Đình Nhu-Nhà lưu trữ Việt Nam thời kỳ 1938-1946/Ngô Đình Nhu, the Vietnamese archivist during the period of 1938 to 1946”. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, S. 6-7 (2013). 
  3. ^ Ronald B. Frankum Jr, Historical Dictionary of the War in Vietnam, page 319, Scarecrow Press, 2011
  4. ^ a ă â Tử ngục Chín Hầm và những điều ít biết về Ngô Đình Cẩn, Dương Phước Thu, Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr 33
  5. ^ a ă Danh sách luận văn của các sinh viên tốt nghiệp năm 1938 tại trường École nationale des chartes, Thèses de l'École nationale des chartes
  6. ^ Văn Chinh (24 tháng 8 năm 2008). “Những điều chưa biết về Ngô Đình Nhu”. Báo Điện tử Tổ Quốc của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2011. 
  7. ^ Bradley S. O'Leary & Edward Lee, The deaths of the Cold War kings: the assassinations of Diem & JFK, page 45, Cemetery Dance Publications, 2000, ISBN 9781587670329
  8. ^ Foreign Relations of the United States, 1961–1963, Volume III, Vietnam, January–August 1963, Document 274, Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State, Saigon, ngày 24 tháng 8 năm 1963, 6 p.m
  9. ^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 144
  10. ^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 145
  11. ^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 150
  12. ^ Sự thật về Chiến tranh Việt Nam của Tường Hữu, Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2015, trang 152
  13. ^ VH (18 tháng 9 năm 2009). “Khu biệt điện Trần Lệ Xuân được UNESCO công nhận là di sản tư liệu”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2011. 
  14. ^ TTXVN/Vietnam+ (14 tháng 12 năm 2009). “Mộc bản triều Nguyễn sắp nhận bằng di sản thế giới”. VietnamPlus, TTXVN. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2011. 
  15. ^ Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu
  16. ^ Nguyễn Văn Minh (2003). Dòng họ Ngô Đình, ước mơ chưa đạt. Hoàng Nguyên. tr. 421. 
  17. ^ Chính đề Việt Nam, Phần III, Vai trò của Miền Nam, Tùng Phong, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1964
  18. ^ Chính đề Việt Nam, Phần III, Cơ sở hạ tầng vô tổ chức, Tùng Phong, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1964
  19. ^ Lâm Lễ Trinh: Mạn Đàm Với Đại tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa Trang 2006
  20. ^ Chính đề Việt Nam (Tùng Phong Lê Văn Đồng)
  21. ^ Thử xác định tác giả của Chính đề Việt Nam qua chính nội dung của cuốn sách này

Tham khảo

  • Đào Thị Diến. Ngô Đình Nhu - Nhà lưu trữ Việt Nam thời kỳ 1938-1946/Ngô Đình Nhu, the Vietnamese archivist during the period of 1938 to 1946. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (2013).

(Nguồn: Wikipedia)