Lê Văn Tri
Trung tuong Le Van Tri.JPG
Tiểu sử
Quốc tịch Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Sinh 1920
Hạ Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình, Liên bang Đông Dương
Mất 2006
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1945–1988
Cấp bậc Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg Trung tướng
Đơn vị Tổng cục Kỹ thuật

Lê Văn Tri (1920–2006) là tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật (1977-1988), Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân chủng (1969-1977). Ông là một trong những vị tướng nối tiếng đất Quảng Bình. Ngoài ra ông còn từng là Đại biểu Quốc hội khóa 7, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 4.1 2 3 4

Thân thế

Ông tên thật là Lê Chiêu Nghi. sinh ngày 13 tháng 9 năm 1920. Quê ông ở làng Cao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.5

Bố ông mất năm ông lên 3 tuổi. Một ông anh của ông làm thuê ở đồn điền B’lao, Lâm Đồng. Một ông anh khác làm thuê ở Sài Gòn (trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Người anh còn lại ở nhà mất sớm, từ đó ông phải nghỉ học, sau khi đậu bằng yếu lược, ở nhà cùng cô em gái theo mẹ đi buôn bán kiếm sống. Rồi sau đó ông vào Sài Gòn với người anh thứ hai cùng đi làm thuê.6

Sự nghiệp

Năm 1939, hai anh em ông trở lại quê, ông vào Đồng Hới vừa đi dậy thêm vừa học. Đúng ra là ba năm, nhưng chỉ sau một năm học ông thi đậu bằng primaire và thi vào Trường Kỹ nghệ Huế học cùng lớp các tướng lĩnh tương lai Hoàng Văn Thái (Trung tướng), Trần Văn Trà (Thượng tướng), Trần Sâm (Thượng tướng)…

Ông rất mê thể thao, chơi bóng rổ giỏi, nên học ba năm Trường Kỹ nghệ xong, ông học tiếp thể thao một năm rồi về làm huấn luyện viên thể thao ở thị xã Đồng Hới. Một thời gian sau do có mâu thuẫn dẫn đến xô xát với con trai của quan tuần vũ, án sát nên ông bị cách chức huấn luyện viên và phạt 6 tháng tù. Ông liền trốn vào Biên Hòa làm công nhật ở Sở Công chính. 

Tháng 6 năm 1945, ông gia nhập Thanh niên Tiền phong ở Biên Hòa.  

Tháng 8 năm 1945, cùng lực lượng của Thanh niên Tiền phong ông tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn, Biên Hòa. Khi cuộc kháng chiến ở Nam Bộ bùng nổ, ông quay về Quảng Bình, tham gia Giải phóng quân thuộc Chi đội Lê Trực của tỉnh (15/9/1945). 

Từ chiến sĩ trưởng thành lên, ông lần lượt giữ các chức vụ: Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội phó, Đại đội trưởng Đại đội 12 Phú Quý thuộc Giải phóng quân Quảng Bình. 

Tập tin:Tinh doi pho Quang Binh Le Van Tri 1947.jpg
400px

Năm 1946, ông là Đại đội trưởng, Chi ủy viên Đại đội 6 Ba-na Lào (Mặt trận đường 12).  

Năm 1948, ông lần lượt giữ các chức vụ: Tiểu đoàn phó, Tỉnh đội phó Tỉnh đội Quảng Bình rồi Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 12 trực thuộc Liên khu 4.  

Năm 1948, trước tình hình nguy ngập của chiến trường, để ngăn chặn bước tiển của quân Pháp từ Lào xuống Quảng Bình, ông đã chủ động ra lệnh cho bộ đội đánh phá tuyến đường này ở vùng biên giới Cha-lo (Cổng trời). Đó cũng là trận đánh đầu tiên của ông trên cương vị chỉ huy. Tuy nhiên, khi trận đánh vừa kết thúc thì có lệnh của Tư lệnh Liên khu Thiếu tướng Lê Thiết Hùng bắt đưa ông về Bộ Tư lệnh vì tự ý chỉ huy bộ đội đánh phá đường 12 mà không được phép của Bộ Tư lệnh. Lúc ông đang trên đường về Bộ tư lệnh, thì tướng Lê Thiết Hùng nhận được điện khẩn của Bộ tổng Tư lệnh nhanh chóng đưa 1 tiểu đoàn công binh lên phá đường 12. Cầm bức điện trên tay, tướng Lê Thiết Hùng biết cấp dưới của mình đã làm đúng và ra lệnh cho ông trở về đơn vị tiếp tục chỉ huy đánh giặc. 

Năm 1949, ông là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Bình kiêm Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 274 trực thuộc Trung đoàn 18.  

Năm 1950, ông là Trung đoàn phó Trung đoàn 161 kiêm Tham mưu phó Phân khu Trị Thiên.  

Năm 1952, ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 thuộc Đại đoàn 325 Trị Thiên, Trung đoàn 101 Trần Cao Vân. Đảng ủy viên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 95.  

Tháng 3 năm 1953, ông được điều rời chiến trường Bình Trị Thiên về tổ chức xây dựng Trung đoàn pháo cao xạ 367 (Pháo phòng không 37mm, đây là Trung đoàn Pháo cao xạ đầu tiên của Quân đội ta), tham gia chiến đấu trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (Đông Xuân 1953-1954). Năm 1954, Trung đoàn 367 do ông làm Trung đoàn trưởng được nâng thành Đại đoàn 367 trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng pháo binh, sau trực thuộc Bộ Quốc phòng, do ông Hoàng Kiện (Trung tướng) làm Đại đoàn trưởng, Đoàn Phùng làm Chính ủy, ông làm Đại đoàn phó-Đảng ủy viên (9/1954). Sau đó, ông được lệnh chuyển binh chủng pháo 40, 88 và 90 ly thành lập các trung đoàn bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và Vinh. 

Khi Đại đoàn trưởng Hoàng Kiện đi học trở về. Ông Đào Sơn Tây lên làm Đại đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng. Ông rời Đại đoàn xuống Kiến An, Hải Phòng học văn hóa, học tiếng Trung Quốc cho tới đầu tháng 8 năm 1956 thì được lệnh về Hà Nội chuẩn bị sang Liên Xô học tập ở Học viện Pháo binh Leningrad. Đoàn học viên gồm năm mươi người sang học tại nhiều học viện quân sự khác nhau, do ông Đàm Quang Trung làm đoàn trưởng, ông Lê Tự Đồng phụ trách chính trị, ông làm Đoàn phó Hậu cần.  

Ngày 20 tháng 8 năm 1956, đoàn rời Hà Nội đi xe lửa qua Bắc Kinh, Mãn Châu Lý rồi sang Matxcova, rồi tiếp sau đó ông về Học viện ở Leningrad học tập ở đây 4 năm. 

Năm 1961, sau khi học tập ở Liên Xô trở về, ông làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Pháo binh phụ trách về pháo phòng không (12/1961).

Tháng 12 năm 1963 ông được cử giữ chức Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân chủng.

Tập tin:Thieu tuong Le Van Tri nam 1972.jpg
400px

Tháng 9 năm 1964, ông được đề bạt lên làm Cục phó Cục tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu.

Năm 1967, ông là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không-Không quân

Năm 1969, ông là Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân.

Ngày 10 tháng 3 năm 1977, ông được cử giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật kiêm Bí thư Đảng ủy Tổng cục.

Năm 1988, ông nghỉ hưu.

Ngày 29 tháng 5 năm 2006, ông mất.

Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1982)7

Khen thưởng

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng năm 2015)

Huân chương Độc lập hạng Nhất

Huân chương Quân công hạng Nhất

Huân chương Chiến công hạng Nhì

Huân chương Chiến thắng hạng Nhì

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba)

Huy chương Quân kỳ quyết thắng.

Gia đình

Ông và vợ có bốn người con: Lê Quang Minh, Lê Quang Huy, Lê Thu Hiền, Lê Quang Minh6

Chú thích

  1. ^ Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam (Phan Hoàng), Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
  2. ^ Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam năm 2004, tr. 1346
  3. ^ Lịch sử Quân chủng Phòng không-Không quân (1963-2013), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tr. 873
  4. ^ Lịch sử Tổng cục Kỹ thuật (1974-2014), NXb Quân đội Nhân dân, tr.504
  5. ^ “Lê Văn Tri”. 
  6. ^ a ă “Cuộc đời và sự nghiệp của Trung tướng Lê Văn Tri qua ảnh”. 
  7. ^ “Lê Văn Tri vị tư lệnh của những trận chiến trên không”. 

http://vtv.vn/chinh-tri/60-nam-ngay-truyen-thong-bo-doi-khong-quan-20150302124236671.htm

(Nguồn: Wikipedia)