Bùi Nam Hà (sinh năm 1924) là tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội, Viện trưởng Học viện Hậu cần, Phó Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, Cục trưởng Cục nhà trường Bộ Tổng tham mưu, Phó Tư lệnh Đoàn 959, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Tây Nguyên, Tham mưu phó Quân khu 5.1 2 3 4 5 6

Thân thế và sự nghiệp

Ông quê tại phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Ông tham gia cách mạng từ tháng 12 năm 1944.

Từ tháng 12 năm 1944 đến tháng 3 năm 1945, ông là liên đội trưởng hoạt động Việt Minh bí mật trong Đoàn Thanh niên Tuyên truyền xung phong thuộc Đoàn thanh niên Cứu Quốc Hà Nội.

Tháng 3 năm 1945, ông gia nhập quân đội. 

Từ ngày 19 tháng 8 năm 1945 đến tháng 12 năm 1949, ông lần lượt giữ các chức vụ: Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng giải phóng quân Chi đội Phú Vĩnh Phúc năm 1946; Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 55 Bắc Ninh, Tiểu đoàn 56 Bắc Giang, Trung đoàn Bắc Bắc, năm 1946; Tiểu đoàn 517 Độc lập Khu 12 Vệ quốc đoàn năm 1948; Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 322, Trung đoàn 88, Sư đoàn 308, Phó bí thư Liên chi năm 1949.

Từ tháng 1 năm 1950 đến tháng 9 năm 1955, ông lần lượt giữ các chức vụ: Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 88, Sư đoàn 308, Phó bí thư Đảng uỷ Trung đoàn, Phó Chủ tịch uỷ ban tiếp quản Thủ đô Hà Nội năm 1954.

Từ tháng 10 năm 1955 đến tháng 10 năm 1964, ông là Phó Tham mưu trưởng Quân khu Tả Ngạn, Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu, năm 1958.

Từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 11 năm 1972, ông vào chiến trường B1, B3 Quân khu 5, giữ các chức vụ: Tham mưu phó Quân khu 5, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Tây Nguyên, Thường vụ Đảng uỷ B3, Phó Tư lệnh Đoàn 959 Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, Thường vụ Đảng uỷ Đoàn 959. 

Từ tháng 12 năm 1972, ông làm Cục trưởng Cục nhà trường Bộ Tổng tham mưu, Uỷ viên Ban chấp hành Đảng uỷ Bộ Tổng Tham mưu,

Năm 1979, ông là Khoa trưởng Khoa Nghệ thuật Quân sự Viện Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng

Năm 1980, ông là Phó Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao

Năm 1981, ông làm Viện trưởng Học viện Hậu cần, Đảng uỷ viên Ban chấp hành Đảng uỷ Tổng cục Hậu cần.

Từ tháng 10 năm 1982 đến năm 1991, ông là Phó Tổng thanh tra Quân đội, Uỷ viên thường trực Hội đồng thi đua Bộ Quốc phòng, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Ni-ca-ra-goa.

Năm 1992 ông được Nhà nước cho nghỉ hưu. 

Thiếu tướng (1983)

Khen thưởng

Huân chương Độc lập hạng Nhất

Huân chương Quân công hạng Nhất

Huân chương Kháng chiến hạng Nhất

Huân chương Kháng chiến Chống Mỹ hạng Nhất

Huân chương Chiến thắng hạng Hai

Huân chương Chiến công hạng Nhất

Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất

Huân chương Chiến công hạng Nhì

Huân chương Chiến sĩ giải phóng (hạng Nhất, Nhì, Ba)

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba)

Chú thích

  1. ^ “Có một “Pa-ven” trong ký ức đồng đội”. 
  2. ^ “Nghệ thuật quân sự và sức mạnh đoàn kết”. 
  3. ^ “Chiến thắng Điện Biên Phủ: Sức mạnh thời đại Hồ Chí Minh”. 
  4. ^ “GẶP GỠ, GIAO LƯU VỚI NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ: “KÝ ỨC ĐIỆN BIÊN””. 
  5. ^ “Niềm tin tuyệt đối để giành chiến thắng”. 
  6. ^ “Thiếu tướng Nam Hà: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô””. 

(Nguồn: Wikipedia)