Thành Thái (1889-1907)
Đống Khánh mất, các con trai còn quá nhỏ. Triều đình Huế vâng chỉ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu (vợ Thiệu Trị) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ Tự Đức) đón Hoàng tử Bửu Lân (con thứ 7 của Dục Đức) mới 8 tuổi về cung lên làm vua, niên hiệu là Thành Thái.
Thành Thái thông minh, hiếu học, khi 4 tuổi, vua cha là Dục Đức bị phế và chết trong tù, Bửu Lân phải ra sống ở ngoại thành với bà con lao động, đã từng chia sẻ gian khổ với những người nghèo trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, khi làm vua đến 10 tuổi Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự. Thành Thái rất thích học các tân thư chữ Hán của Trung Quốc, Nhật Bản. Thành Thái có ý thức tự cường dân tộc và có những dự định cách tân đất nước, song đều bị thực dân Pháp ngǎn chặn.
Thành Thái rất thương dân, thường hay vi hành để được gần dân chúng, để hiểu được sự đau khổ của dân một nước nô lệ.
Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều bù nhìn rất muốn truất ngôi của Thành Thái vì vua không chịu nghe theo ý hắn. Ngày 29/7/1907, Lê-véc-cơ nói thẳng với vua: "Nhà vua không thành thật cộng tác với chính phủ bảo hộ thì mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán. Nhà vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi Đại Nội dành riêng cho vua".
Ngày 3/9/1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.
Ngày 12/9/1907 thực dân Pháp đưa Thành Thái đi quản thúc ở Cap Saint Jacques, đến nǎm 1916 thì đày ra đảo Réunion cùng với con là Duy Tân.
Thành Thái làm Vua được 18 nǎm, bị phế truất nǎm 28 tuổi. Sau 31 nǎm bị đi đày, nǎm 1947 được trở về Tổ quốc. Ngày 24/3/1954 Thành Thái mất tại Sài Gòn, thọ 74 tuổi.
(Nguồn: Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam)