Nhân Vật Lịch Sử
- Banner được lưu thành công.
- Nhân Vật Lịch Sử
Kinh Dương vương (chữ Hán: 涇陽王); là một nhân vật truyền thuyết, ông nội Hùng Vương thứ nhất, thuộc dòng dõi Vua Thần Nông vốn được suy tôn làm thủy tổ của người Bách Việt. Dã sử chép Kinh Dương vương tên húy là Lộc Tục (祿續), là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (~2879 Tr.CN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Kinh Dương vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân.
Kinh Dương vương có thể là danh hiệu đời sau truy tặng cho một tù trưởng bộ lạc đã góp công vào việc thống nhất tộc người Lạc Việt, có thể là tù trưởng bộ lạc Văn Lang trước Hùng Vương. Sự nghiệp của ông được tiếp nối bởi Lạc Long Quân và Hùng Vương đời thứ nhất. Niên đại của Kinh Dương vương là trước thế kỷ 7 TCN bởi theo các bằng chứng khảo cổ học thì nhà nước đầu tiên Văn Lang được thành lập vào thế kỷ VII TCN.
- Banner được lưu thành công.
- Nhân Vật Lịch Sử
Kinh Nam (荆南) (924–963) hay còn gọi là Nam Bình (南平), Bắc Sở (北楚), là một trong mười nước tại miền Trung Nam Trung Quốc, được thành lập sau năm 907, khi nhà Đường sụp đổ, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Ngũ đại Thập quốc tại Trung Quốc (907-960).
- Banner được lưu thành công.
- Nhân Vật Lịch Sử
Kinh Sơn (chữ Hán giản thể: 京山县) là một huyện thuộc địa cấp thị Kinh Môn, tỉnh Hồ Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 3520 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2002 là 636.100 người. Mã số bưu chính là 431800. Mã vùng điện thoại là 0724. Về mặt hành chính, huyện này được chia thành 14 trấn: Tân Thị, Vĩnh Hưng, Tào Vũ, La Điếm, Tống Hà, Bình Bá, Tam Dương, Lục Lâm, Dương Tập, Tôn Kiều, Thạch Long, Vĩnh Long, Nhạ Môn Khẩu, Tiền Trường.
- Banner được lưu thành công.
- Nhân Vật Lịch Sử
Kinh Xuân Thu (chữ Hán: 春秋; bính âm: Chūnqiū), cũng được gọi là Lân Kinh (chữ Hán: 麟經) là bộ biên niên sử của nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN tới năm 481 TCN, tức là từ Lỗ Ẩn Công năm thứ nhất đến Lỗ Ai Công năm thứ 14. Đây là văn bản lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo thể biên niên. Văn bản được đánh giá cực kỳ súc tích, và nếu bỏ toàn bộ những lời phê bình, nội dung sẽ dài khoảng 16.000 chữ, vì thế chỉ có thể hiểu được nghĩa của nó với sự hỗ trợ của những lời bình của các học giả thời xưa, đặc biệt theo truyền thống Tả truyện.
Bởi vì theo truyền thống, cuốn sách này được coi là do Khổng Tử biên soạn (theo giả thuyết của Mạnh Tử), nó được đưa vào trong bộ Ngũ Kinh của văn học Trung Quốc. Mạnh Tử nói rằng: "Kinh Thi mất, sau đó Kinh Xuân Thu mới làm ra. Nước Tấn gọi là Thặng, nước Sở gọi là Đào Ngột, nước Lỗ gọi là Xuân Thu, cũng là một vậy. Chép việc của Tề Hoàn, Tấn Văn, văn là văn sử. Khổng Tử nói rằng: Về nghĩa thì Khâu này trộm lấy đó vậy". Sử ký của Tư Mã Thiên, thiên "Khổng Tử thế gia" cũng chép: "[Khổng Tử] dựa vào sử ký mà làm ra kinh Xuân Thu, bắt đầu từ Ẩn công, kết thúc vào năm Ai công thứ 14, bao gồm 12 đời vua. Căn cứ vào chỗ vua Lỗ là họ hàng với nhà Chu, nên đưa vào những việc thời Tam đại. Văn từ tuy ngắn, nhưng ý rộng [...] Đến như việc viết kinh Xuân Thu, việc gì đáng viết thì viết, đáng bỏ thì bỏ, bọn Tử Hạ đều không thêm được một lời nào". Tuy nhiên, rất ít học giả hiện đại tin rằng Khổng Tử có nhiều ảnh hưởng trên quá trình trước tác văn bản này mà nó là tác phẩm của nhiều nhà biên niên sử người nước Lỗ.
- Banner được lưu thành công.
- Nhân Vật Lịch Sử
Kỷ Dậu (chữ Hán: 己酉) là kết hợp thứ 46 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Kỷ (Thổ âm) và địa chi Dậu (gà). Trong chu kỳ của lịch Trung Quốc, nó xuất hiện trước Canh Tuất và sau Mậu Thân.
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Kỷ Dậu (lưu ý ngày được đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967):