Trần Quang Triều (chữ Hán: 陳光朝, 12871 -1325) còn có tên là Trần Nguyên Đào2 , biệt hiệu là Cúc Đường Chủ nhânVô Sơn Ông; là nhà thơ và là quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyên quán Trần Quang Triều ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường; nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trai cả Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Quốc Tuấn, và là anh vợ vua Trần Anh Tông.

Thuộc dòng dõi quý tộc nên ông được biệt đãi. Tháng 4 (âm lịch) năm 1301, mới 14 tuổi, ông được vua Trần Anh Tông phong tước Văn Huệ vương, và sau đó được làm quan tại triều.

Ông là người văn võ toàn tài, nhưng không ham phú quý. Khi vợ ông là Công chúa Thượng Trân qua đời, ông về tu 3 ở am Bích Động (thuộc huyện Đông Triều), và lập ra thi xã Bích Động để cùng xướng họa với các bạn thơ, như Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Ức, Tự Lạc tiên sinh,...

Năm 1321, dưới triều vua Trần Minh Tông, Trần Quang Triều được triệu ra gánh vác việc nước. Ông giữ chức Nhập nội kiểm hiện tư đồ được ít lâu thì mất. Khi ấy là vào tháng 8 âm lịch năm Khang Thái thứ 2 (1325)4 , và ông chỉ ở khoảng 38 tuổi.

Căn cứ bài thơ "Tống Cúc Đường chủ nhân chinh Thích Na" (Tiễn Cúc Đường chủ nhân đi đánh Thích Na) của Nguyễn Ức, thì khi đang chức, Tư đồ Trần Quang Triều đã từng cầm quân đi đánh Thích Na 5 .

Tác phẩm

Sau khi Trần Quang Triều mất, bạn bè ông đã thu thập và biên tập thơ ông thành tập Cúc Đường di cảo6 . Nhưng trong thời gian kháng Minh, tập thơ ấy đã thất lạc. Đến đầu thời Lê, Phan Phu Tiên sưu tầm được 11 bài bèn chép trong Việt âm thi tập.

Mặc dù số thơ của Trần Quang Triều còn lại không nhiều, nhưng ông cùng với Nguyễn Ức và Nguyễn Sưởng họp thành một dòng thơ riêng thời Trần. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì đó là những con người mang trong lòng nỗi thất vọng sâu sắc về sự suy thoái của vương triều này. Vì thế có thể thấy trong thơ Trần Quang Triều, gần như chỉ phơi bày một tâm trạng cô đơn, với bao điều ngổn ngang. Song cái buồn của ông chỉ là cái buồn nhẹ, chứ chưa đến mức bi đát, vô vọng như Nguyễn Ức. Cho nên lời thơ của ông hãy còn trong sáng, gợi cảm, chứ chưa rơi vào ảo não; được Phan Huy Chú đánh giá là "thanh thoát, đáng ưa"7 . Giới thiệu 1 bài:

Phiên âm Hán-Việt:
Quy chu tức sự
Qủy ngộ niệm thù khinh,
Quy tâm mộng tự vinh (oanh).
Ðiểu đề yên thụ một,
Phàm đới tịch dương hành.
Thu tước sơn dung sấu,
Triều khai thủy giám minh.
Túy ông hồn vị tỉnh,
Hồng diệp mãn giang thành.
Dịch nghĩa
Thuyền về tức cảnh
Nghĩ đến những cuộc gặp gỡ giả dối lòng càng coi nhẹ,
Cho nên giấc mộng về cứ vương vấn mãi.
Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói,
Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà.
Hơi thu đẽo gầy dáng núi,
Triều lên, mặt nước như gương sánh.
Ông già say vẫn chưa tỉnh,
Lá đỏ rơi đầy thành ven sông.

Thi xã Bích Động

Bích động thi xã là tên một hội thơ do Trần Quang Triều làm chủ soái. Đây là một trong những hội thơ sớm nhất của nền thi ca phong kiến Việt Nam, có từ thế kỷ 14, trước cả Tao đàn Nhị thập bát Tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Thi xã được lập ở am Bích Động, cạnh chùa Quỳnh Lâm (nay thuộc xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), nơi có các lăng mộ vua Trần, điền trang và thái ấp tổ tiên của Trần Quang Triều. Thi xã đã tụ hội được một số nhà thơ có tiếng thời bấy giờ, những thành viên còn biết đến ngày nay là Trần Quang Triều, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn...8 .

Xem thêm

  • Nguyễn Sưởng
  • Nguyễn Ức

Chú thích

  1. ^ Chép theo Nguyễn Huệ Chi (tr. 1798). Trần Văn Giáp (tr. 857) ghi ông sinh năm 1285.
  2. ^ Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Quyển 8, tờ 5a) và Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục đều ghi là Trần Nguyên Đào.
  3. ^ Đại Việt sử ký toàn thư (quyển 6, tờ 25a) kể: "Thượng Trân Công chúa mất, (vua Trần) Minh Tông đến điếu tang, Văn Huệ (vương) ra đón tiếp tâu bày, như không có gì đau buồn, mọi người đều cho là (Văn Huệ) thế nào cũng lại lấy vợ khác. Nhưng sau Văn Huệ đi tu đến trọn đời".
  4. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển 6, tờ 43b.
  5. ^ Thích Na là địa danh hay là tên đội quân, chưa tra được.
  6. ^ Căn cứ bài "Cảm tác khi biên tập di cảo của Cúc Đường" (Biên tập Cúc Đường di cảo cảm tác), thì người biên tập Cúc Đường di cảo chính là Nguyễn Ức, tác giả bài thơ.
  7. ^ Lược theo Nguyễn Huệ Chi, tr. 1216 và 1799.
  8. ^ Theo thông tin trên website của Hội Nhà văn Việt Nam [1].

Sách tham khảo

  • Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 2). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1985.
  • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
  • Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Trần Quang Triều" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học thế kỷ X-XVI, mục từ "Trần Quang Triều". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.

(Nguồn: Wikipedia)