Nguyễn Mạnh Quân | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | 1923 huyện Gia Khánh, phủ Trường An, Đại Nam |
Mất | 1988 ? |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1945-1977 |
Cấp bậc | Đại tá |
Tham chiến | Chiến dịch Hà Nam Ninh Chiến dịch Hòa Bình Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 |
Khen thưởng | Huân chương Quân công hạng nhất, nhì Huân chương Kháng chiến hạng nhất, nhì Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Nhì, Ba Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba Huy chương Quân kỳ Quyết thắng |
Đại tá Nguyễn Mạnh Quân (1923-1988) là một sĩ quan chỉ huy của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những chỉ huy chiến trường quan trọng trong suốt thời kỳ Chiến tranh Việt Nam (1945-1975), là một trong chỉ huy trực tiếp của Mặt trận Tây Nguyên trong Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972.
Thân thế và khởi đầu binh nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Thế Minh, sinh năm 1923, nguyên quán tại huyện Gia Khánh, phủ Trường An (nay thuộc xã Ninh Khang, Hoa Lư, Ninh Bình). Trước năm 1945, khi các cán bộ Việt Minh đến huyện Gia Khánh tuyên truyền vận động, ông tham gia lực lượng bán quân sự Cứu Quốc tại địa phương. Năm 1945, ông tham gia giành chính quyền tại Ninh Bình. Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Trung đội trưởng Trung đội Giải phóng quân tại địa phương.1
Hoạt động tại miền Bắc
Năm 1946 ông là càn bộ cấp tiểu đoàn,rồi tham gia trong đoàn quân Tây Tiến. Đầu năm 1947, quân Pháp mở rộng phạm vi kiểm soát ra toàn miền Bắc. Đến đầu năm 1948, nhằm thuận tiện trong việc chỉ huy và tổ chức quân đội, các Liên khu được thành lập. Ông được phân công về làm chỉ huy quân sự tại Trung đoàn 46, trung đoàn chủ lực của Liên khu 3. Bấy giờ, ông Hoàng Minh Thảo đang giữ chức Phó Tư lệnh Liên khu này.
Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, ông cùng trung đoàn chiến đấu cơ động tại các tỉnh trên địa bàn Liên khu 3 như Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam,Hà Đông, Sơn Tây Hòa Bình... Năm 1951, ông cùng trung đoàn tham gia trong Chiến dịch Hòa Bình. Cuối năm 1953, ông được phân công làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46, chỉ huy trung đoàn tham gia đánh nhiều trận tại Liên khu 3 nhằm phối hợp với chiến trường trên cả nước, phá tan kế hoạch tập trung binh lực của Pháp Kế hoạch Navarre2 .
Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc,ông là chủ tịch ủy ban quân quản khi trung đoàn về tiếp quản thành phố Nam Định, tháng 10 năm 1954, ông được cử làm Tham mưu trưởng Liên khu 31 và giữ chức vụ này cho đến khi Liên khu 3 giải thể để thành lập Quân khu Hữu Ngạn. Năm 1958, ông được phong quân hàm Trung tá.
Năm 1959, ông được cử sang Liên Xô theo học tại Học viện Quân sự Frunze. Cuối năm 1962, ông về nước, công tác tại Học viện Quân chính, dưới quyền thượng cấp cũ là Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo. Tháng 10 năm 1963, ông được phân công làm Phó chủ nhiệm Hệ giáo dục quân sự Học viện Quân chính. Tháng 3 năm 1964, ông được điều sang làm Hiệu phó Trường Sĩ quan Lục quân. Tháng 5 năm 1969, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam.1 3 Trong thời gian này ông đã có các chuyến thị sát thực tế chiến trường tại miền Đông Nam bộ (B2) và Lào để bổ sung cho công tác huấn luyện bộ đội chiến đấu
Chỉ huy tại chiến trường Tây Nguyên
Tháng 4 năm 1970, ông được cử vào chiến trường Tây Nguyên4 , được cử giữ chức Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận. Người chỉ huy ông cũng chính là tướng Hoàng Minh Thảo, bấy giờ đang là Tư lệnh Mặt trận. Với tư cách là Tham mưu trưởng Mặt trận, ông đã tham gia xây dựng các kế hoạch, cũng như trực tiếp chỉ huy các hoạt động quân sự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại vùng này, đặc biệt là Chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Trong chiến dịch này, ông chịu trách nhiệm theo dõi và chỉ huy trực tiếp các lực lượng Quân giải phóng trong Trận Đắk Tô - Tân Cảnh, tiêu diệt cụm phòng ngự Đắk Tô - Tân Cảnh, tấn công Chỉ huy sở Sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bắn chết Đại tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh Sư trưởng, Đại tá Vi Văn Bình - Phó Tư lệnh và hầu hết sĩ quan Bộ Tham mưu Sư đoàn 22 bị bắt sống, gần như xóa sổ 2 trung đoàn 42 và 47 của Việt Nam Cộng hòa.5 .Đây là trận chiến có quy mô lớn nhất và chiến thắng oanh liệt nhất của Mặt trận Tây Nguyên tính tới thời điểm này. Tuy đạt kết quả tốt trong trận này, nhưng do dồn hết sức vào trận, cũng như không đủ lực để phát triển tiếp Trận Kontum, dẫn đến mục đích của Mặt trận Tây Nguyên không đạt được kết quả mong muốn.
Việc thiếu một đơn vị lớn tại chiến trường Tây Nguyên là một trong những lý do dẫn đến kết quả trên. Chính vì vậy, ngày 20 tháng 9 năm 1972, một sư đoàn chủ lực mới của Mặt trận Tây Nguyên được thành lập với phiên hiệu Sư đoàn 10, mật danh Đoàn Đắc Tô, hình thành từ Bộ tư lệnh và cơ quan mặt trận cánh đông Tây Nguyên tại Đắc Tô - Tân Cảnh. Ông được giao nhiệm vụ kiêm Sư đoàn trưởng đầu tiên của Sư đoàn này. Thượng tá Đặng Vũ Hiệp được phân công làm Chính ủy.6 Rút kinh nghiệm từ đơn vị bạn trong trận Công Tum, ông đã trực tiếp trinh sát kỹ lưỡng và từ đó trực tiếp chỉ huy giành thắng lợi giòn giã trong trận tiêu diệt một cứ điểm mạnh khác của Quân lực Việt Nam cộng hòa ở mặt trận Tây nguyên là Plây cần
Cuối tháng 5 năm 1973, tướng Hoàng Minh Thảo được rút ra Bắc nhận chức Phó Tư lệnh Quân khu 5. Ông được phân công kiêm quyền Tư lệnh một thời gian ngắn trước khi cũng được rút về Bắc đảm nhiệm lại chức vụ Cục trưởng Cục Quân huấn năm 1974. Thay ông trong chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 là Thượng tá Đỗ Đức Giá, Phó tham mưu trưởng Mặt trận Tây Nguyên.6
Tham gia đào tạo sĩ quan
Đầu năm 1975, ông được phong quân hàm Đại tá và tham gia công tác chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau thắng lợi quân sự cuối cùng, cuối năm 1975, ông cùng một số cán bộ Cục Quân huấn được phân công tham gia "Tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh" tại Đà Lạt3 .Sau đó ông được cử làm Phó trưởng đoàn quân sự cấp cao của QDND Việt Nam thăm và làm việc tại Học viện quân sự mang tên Nguyên soái Malinopski Liên Xô theo lời mời của bạn. Tháng 5 năm 1976, ông được phân công làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2.Tiếc rằng một năm sau đó ông bị lâm bệnh nặng Ông qua đời năm 1988 tại Thành phố Hà nội.
Vinh danh
Là một trong những chỉ huy chiến trường cao cấp trong suốt Chiến tranh Việt Nam, để ghi nhận công lao của ông, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng cho ông:
- Huân chương Quân công hạng nhất, nhì
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất, nhì
- Huân chương chiến công hạng nhất, nhì, ba
- Huân chương chiến thắng hạng Nhất, nhì, ba
- Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, nhì
- Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, nhì, ba
- Huy chương quân kỳ quyết thắng
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
Chú thích
- ^ a ă â Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. tr. 720.
- ^ Ðại đoàn 320 cùng quân dân đồng bằng Bắc Bộ phối hợp với chiến trường Tây Bắc - Ðiện Biên Phủ
- ^ a ă Lịch sử Cục Quân huấn (1946-2006), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2006
- ^ Bấy giờ mang mật danh B3
- ^ Di tích chiến thắng Ðăktô - Tân Cảnh
- ^ a ă Tài liệu Phòng truyền thống Sư đoàn 10
Xem thêm
- Sư đoàn 10, Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Trận Đắk Tô - Tân Cảnh, 1972
Tham khảo
- Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, 2004
- Hồi ký của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
- Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005
- Lịch sử Cục Quân huấn (1946-2006), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2006
- Tài liệu Phòng truyền thống Sư đoàn 10
- Tài liệu Phòng truyền thống Trường SQLQ 1,2
- Tài liệu Phòng truyền thống Cục Quân huấn - BTTM
(Nguồn: Wikipedia)