Trần Liễu
陳柳
Hoàng tử nhà Trần
Thông tin chung
Thê thiếp Thuận Thiên công chúa
Thiện Đạo quốc mẫu
Hậu duệ
Tước hiệu An Sinh vương (安生王)
Thụy hiệu Khâm Minh đại vương (欽明大王)
Thân phụ Trần Thái Tổ
Thân mẫu Thuận Từ hoàng hậu
Sinh 1211
phủ đệ Tinh Cương, phủ Long Hưng
Mất 23 tháng 4, 1251
đất thang mộc ở Quảng Ninh ngày nay

Trần Liễu (chữ Hán: 陳柳; 1211 - 23 tháng 4, 1251), hay An Sinh vương (安生王) hoặc Khâm Minh đại vương (欽明大王), một tôn thất thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là con đích trưởng của Trần Thái Tổ, anh ruột của Trần Thái Tông, cha ruột của Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu của Trần Thánh Tông là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu.

Trên thực tế, ông là cha ruột của Hoàng trưởng tử Trần Quốc Khang của Thái Tông hoàng đế, vì Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu đã mang thai 3 tháng trước khi bị ép buộc lấy Thái Tông vào năm 1237. Việc này đã làm ông nổi loạn ở sông Cái và bị giáng tước vị, trở thành một đề tài thị phi lúc bấy giờ.

Thân thế

Trần Liễu sinh vào niên hiệu Kiến Gia thứ 1 (1211), tại phủ đệ Tinh Cương, phủ Long Hưng (nay là xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ông là con trai cả của Trần Thừa, mẹ là Lê phu nhân, dưới ông là Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu, Thụy Bà công chúa, Thiên Thành công chúa và em trai ngoài giá thú Trần Bà Liệt.

Khi ông sinh ra và trưởng thành, họ Trần lúc đó dẫn đầu là Trần Tự Khánh đang là thế lực quân phiệt với dã tâm thâu tóm quyền lực của nhà Lý, buộc Lý Huệ Tông phải nương nhờ mình. Tới năm 1216, lúc này ông lên 6 tuổi, chính quyền Lý Huệ Tông cơ bản hoàn toàn nằm trong tay họ Trần.

Ông được ban hôn với Thuận Thiên công chúa, chị của Lý Chiêu Hoàng, con gái của Lý Huệ Tông. Theo Trần triều thế phả hành trạng, trước khi lấy Thuận Thiên công chúa, Trần Liễu đã có người vợ tên là Trần Thị Nguyệt, tức Thiện Đạo quốc mẫu1 .

Tiểu sử

Năm 1224, Chiêu Thánh công chúa lên ngôi, tức Lý Chiêu Hoàng. Người chú họ của ông, Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ, đã sắp xếp em trai ông là Trần Cảnh và Chiêu Hoàng gần gũi với nhau, dẫn đến việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào cuối năm 1225, chấm dứt triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm.

Trần Cảnh lên ngôi, tức Thái Tông Nguyên Hiếu hoàng đế (太宗元孝皇帝) của nhà Trần. Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu.

Tháng 8 âm lịch năm 1228, ông được Thái Tông phong cho làm Thái úy, dự hàng Tể tướng dù lúc đó ông chỉ mới 17 tuổi. Đến tháng 8, năm 1234, ông được phong hiệu làm Hiển Hoàng (顯皇), một tước vị thường do Hoàng đế tự xưng, điều này cho thấy Trần Thái Tông rất cất nhắc ông, từ đây ông chính thức ra chính trường phụ chính cho Thái Tông bên cạnh Thái sư Trần Thủ Độ. Năm 1236, bị giáng làm Hoài vương (怀王), do bị phát hiện cưỡng bức một cung nhân triều Lý cũ.

Năm 1237, vì Thái Tông lấy Lý hoàng hậu mãi không có con, Thái sư Trần Thủ Độ đưa Thuận Thiên công chúa vợ ông, lúc ấy đã có mang 3 tháng vào làm Hoàng hậu thay thế, giáng Lý hoàng hậu trở lại làm Chiêu Thánh công chúa. Đứa trẻ sinh ra là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang2 .

Trước tình cảnh đó, Trẫn Liễu phẫn uất họp quân nổi dậy. Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử, nhưng Trần Thủ Độ gây sức ép cũng đành phải quay về. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền Thái Tông xin tha tội. Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Liễu. Thái Tông tha tội Trần Liễu nhưng quân lính theo ông đều bị giết.

Để an ủi ông, Thái Tông lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (thuộc Quảng Ninh hiện nay) cho ông làm ấp thang mộc, phong làm Yên Sinh vương (安生王).

Năm 1251, Trần Liễu sắp qua đời. Ông dặn người con trai của mình là Trần Quốc Tuấn phải cướp ngôi nhà Trần. Quốc Tuấn nhận lời nhưng không thực hiện3 .

An Sinh vương Trần Liễu mất vào ngày 1 tháng 4 âm lịch năm Nguyên Phong thứ nhất (tức 23 tháng 4 năm 1251), thọ 41 tuổi4 . Đền thờ ông ở núi An Phụ. Ngày mất của ông (1 tháng 4 âm lịch) cũng là ngày hội của đền Cao.

Tước phong

  • Cuối thời nhà Lý, ông được phong làm Phụng Càn vương (奉乾王)4 .
  • Tháng 8 năm 1234, được phong làm Hiển hoàng (顯皇)4 .
  • Tháng 6 năm 1236, giáng làm Hoài vương (怀王), do vụ cưỡng hiếp người phi cũ của triều Lý4 .
  • Tháng giêng năm 1237, phong làm Yên Sinh vương (安生王) sau vụ nổi loạn, do vùng đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang được Trần Thái Tông ban cho Trần Liễu làm ấp thang mộc4 .

Gia đình

Sử không ghi rõ ông có bao nhiêu bà vợ. Chỉ rõ có:

  • Thuận Thiên công chúa , Lý Oanh (李鶯), công chúa lớn nhất của Lý Huệ Tông, sau là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu của Trần Thái Tông.
  • Thiện Đạo quốc mẫu (善道國母), tên húy là Nguyệt (月)5 .
  • Hậu duệ:
  1. Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung [陳嵩], mẹ là Thiện Đạo quốc mẫu 6
  2. Vũ Thành vương Trần Doãn [武成王陳尹], mẹ là Thuận Thiên công chúa4 . Năm 1256, sau khi Thuận Thiên công chúa qua đời, đem cả nhà qua Nhà Tống thì bị bắt lại.
  3. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Thiện Đạo quốc mẫu.
  4. Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang [靖國大王陳國康], mẹ là Thuận Thiên công chúa.
  5. Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thiều [陳韶], con gái thứ 5, sau trở thành hoàng hậu của Trần Thánh Tông, mẹ đẻ của Trần Nhân Tông4 .

Ghi chú

  1. ^ Trần triều thế phả hành trạng, tr.542, 543.
  2. ^ Tuy Quốc Khang về thứ tự là con trưởng nhưng sau này không được nối ngôi. Người nối ngôi Thái Tông vẫn là Trần Hoảng - con lớn nhất do chính Thái Tông sinh ra
  3. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển VI, Kỷ nhà Trần: Anh Tông hoàng đế
  4. ^ a ă â b c d đ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển V, Kỷ nhà Trần: Thái Tông hoàng đế
  5. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển VI, Kỷ nhà Trần: Anh Tông hoàng đế, xem năm Hưng Long 7 (1299)
  6. ^ Thông tin này được Thầy Thích Nhất Hạnh tìm ra vào năm 1972 và công bố tại trường ĐH Sorbonne tại Paris - Pháp. Theo Thầy thì Tuệ Trung Thượng sĩ tên là Trần Quốc Tung. https://www.youtube.com/watch?v=yQ3JA4zczmI)

(Nguồn: Wikipedia)