Phạm Đình Hổ 範廷琥 | |
---|---|
Bút danh | Đông Dã Tiều |
Công việc | Học sĩ, giảng sư |
Quốc gia | An Nam |
Dân tộc | Việt |
Học vấn | Hán học |
Bằng cấp | Sinh đồ |
Giai đoạn sáng tác | Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn |
Thể loại | Triều Nguyễn |
Trào lưu | Cổ điển |
Tác phẩm nổi bật | Quốc triều hội điển Vũ trung tùy bút Tang thương ngẫu lục |
Vợ/chồng | Lê Thị |
Con cái | 5 |
Thân nhân | Phạm Đình Dư (thân phụ) |
Phạm Đình Hổ (tiếng Trung: 範廷琥, 1768 - 1839), tự Tùng Niên (松年), Bỉnh Trực (秉直), bút hiệu Đông Dã Tiều (東野樵), biệt hiệu Chiêu Hổ tiên sinh (昭琥先生), là một danh sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.
Tiểu sử
Ẩn cư
Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tí (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn, có cha là Phạm Đình Dư đã đỗ cử nhân, làm Hiến sát Sơn Nam Hạ, rồi thăng Tuần phủ Sơn Tây, sau về trí sĩ ở phường Hà Khẩu (nay là phố Hàng Buồm, Hà Nội) năm Giáp Ngọ (1774).
Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời...1 . Tuy học & đọc nhiều sách (năm 9 tuổi, ông đã học sách Hán thư), nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ vào khoảng cuối đời Chiêu Thống.
Gặp buổi loạn lạc, Mẫn đế cho người chạy sang cầu viện nhà Thanh, rồi triều đình Lê trung hưng sụp đổ, nhà Tây Sơn lên cầm quyền... Suốt quãng thời gian này, Phạm Đình Hổ sống đời cơ hàn dạy học ở quê.
Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi phục lại việc học hành thi cử; ông có đi thi Hương ba lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Làm quan
Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu ông và Phan Huy Chú vào Huế đợi mệnh cất dùng, nhưng vì ốm ông không vào được.
Năm Tân Tị (1821), vua Minh Mệnh ra Bắc. Khi ấy, Phạm Đình Hổ ở tuổi 53, được vời ông đến hỏi về học vấn, thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc. Lại khuyên hễ có những sách tiền triều, trước thuật... nên đem tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách do mình biên soạn, bèn được triệu vào Huế làm Hành tẩu Viện Hàn lâm, được ít lâu, ông xin từ chức.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu ông, cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm sau, xin nghỉ bệnh rồi từ chức. Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học sĩ.
Năm Nhâm Thìn (1832), ông xin về trí sĩ. Năm Kỷ Hợi (1839), Phạm Đình Hổ mất, thọ 71 tuổi.
Tác phẩm
Văn chương
Phạm Đình Hổ, vốn muốn lấy văn thơ nổi tiếng ở đời2 , nên cuộc đời ông chủ yếu dành cho việc sáng tác và biên soạn sách hơn là việc ở chốn quan trường. Và nhờ đọc nhiều, đi nhiều, ông đã để lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị thuộc đủ mọi lĩnh vực như luận lý, lịch sử, địa dư, trước thuật... tất cả đều bằng chữ Hán, nay còn lưu đến 22 trứ tác, đáng kể gồm:
|
|
|
Thi phú
- Đông Dã học ngôn thi tập
- Tùng cúc liên mai tứ hữu tập
- Bạn tiếp tồn phùng thi tập
- Châu Phong thi tập
(Nguồn: Wikipedia)