Nguyễn Thị Định | |
---|---|
Chức vụ | |
Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 19 tháng 4 năm 1987 – 26 tháng 8 năm 1992 5 năm, 129 ngày |
Chủ tịch hội đồng nhà nước | Võ Chí Công (1987-1992) |
Tiền nhiệm | Lê Thanh Nghị (Tổng Thư ký) Chu Huy Mân |
Kế nhiệm | Nguyễn Thị Bình |
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 5 năm 1982 – 20 tháng 5 năm 1992 10 năm, 0 ngày |
Tiền nhiệm | Hà Thị Quế |
Kế nhiệm | Trương Mỹ Hoa |
Đại biểu Quốc hội khoá VI, VII, VIII | |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 4 năm 1976 – 19 tháng 7 năm 1992 16 năm, 85 ngày |
Thông tin chung | |
Danh hiệu | Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 15 tháng 3, 1920 Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre, Việt Nam |
Mất | 26 tháng 8, 1992 (72 tuổi) Bến Tre, Việt Nam |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1936 - 1992 |
Cấp bậc | Thiếu tướng |
Chỉ huy | Đồng khởi Bến Tre |
Nguyễn Thị Định (15 tháng 3 năm 1920[1][2] – 26 tháng 8 năm 1992), còn gọi là Madame Nguyễn Thị Định, Ba Định) (bí danh Bích Vân, Ba Tấn, Ba Nhất và Ba Hận [3]); là nữ tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tiểu sử
Nguyễn Thị Định sinh ngày 15 tháng 3 năm 1920
Thành phần gia đình: nông dân
Nguyên quán: xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.[4]
Cuộc đời hoạt động cách mạng
Giai đoạn Đấu tranh giành độc lập và Kháng chiến chống Pháp
Năm 1936, được sự dìu dắt của người anh ruột là Nguyễn Văn Chẩn, bà tham gia phong trào Đông Dương đại hội như đi liên lạc, rải truyền đơn. Bà đã vận động bà con chống sự áp bức, bóc lột cường hào ở địa phương.
Năm 1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1940, chồng bà bị đối phương bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh ở đó. Nửa năm sau, bà cũng bị giặc bắt đày đi Bà Rá (thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay.)
Năm 1943, do bị đau tim nặng, bà được trở về quê, chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương.
Năm 1944, bà bắt liên lạc được với tổ chức cách mạng rồi tiếp tục hoạt động.
Tháng Tám năm 1945, bà tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Bến Tre.
Tháng 3 năm 1946, bà tham gia đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ để báo cáo tình hình kháng chiến ở Nam Bộ và xin chi viện vũ khí. Tháng 11 năm đó, bà làm Trưởng đoàn của đoàn thuyền chở vũ khí về Nam.
Năm 1947, bà được bầu vào Tỉnh Ủy Bến Tre. Từ đó, bà cùng các cán bộ lãnh đạo ở địa phương tổ chức cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre.
Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre cùng với cả nước đã giành được thắng lợi.
Giai đoạn chiến tranh Việt Nam
Những năm sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954), Bến Tre là một trọng điểm cần phải bình định của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong thời gian này, bà là một trong những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Bến Tre, đã cùng với các cán bộ lãnh đạo khác ra sức bảo vệ cách mạng, bảo vệ nhân dân.
Tháng 11 năm 1959, bà làm Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Sau đó bà nhận nhiệm vụ về khu ủy Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ) dự hội nghị tiếp thu Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đầu năm 1960, bà một trong những người lãnh đạo Đồng khởi Bến Tre và là người chỉ đạo trực tiếp cuộc Đồng khởi đợt I (17/1/1960)ở ba điểm xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp (thuộc huyện Mỏ Cày Nam hiện nay) thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi trong tỉnh và toàn miền Nam sau này.
Sau cuộc Đồng khởi Bến Tre, bà làm Bí thư tỉnh ủy và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến Tre.
Năm 1964, trong Đại hội dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ nhất, bà được bầu làm Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương mặt trận. Năm 1965,bà giữ chức Phó Tư lệnh quân Giải phóng miền Nam; tại đại hộp Phụ nữ toàn miền Nam, bà làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Năm 1974, bà được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam.
Giai đoạn nước nhà thống nhất (sau 1975)
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (sau năm 1975), bà giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI,[5] VII,[6] VIII[7]; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ 1987 đến 1992, bà giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Ngày 26 tháng 8 năm 1992, bà từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 72 tuổi.
Vinh danh
Ngày 30 tháng 8 năm 1995, bà Nguyễn Thị Định được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1968, Bà được nhận Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô trao tặng.
Sau khi bà mất, đền thờ bà được lập tại ấp Phong Điền, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm. Trong đền thờ có tượng đồng chân dung bà, tượng có chiều cao 1,75 m, nặng 1.025 kg, đặt trên bệ thờ cao 1,5 m do Bộ Quốc phòng trao tặng[8].
Ngoài ra, nhân dân Hát Môn (Hà Nội) cũng đã rước bát hương bà về thờ trong khu đền Hai Bà Trưng. Tên của bà cũng được đặt cho nhiều tuyến đường, phố và trường học tại nhiều địa phương khác nhau ở nhiều tỉnh, thành phố.
Tham khảo
- ^ “Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - người phụ nữ huyền thoại Việt Nam”. Dân Việt. Ngày 2 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2016.
- ^ HN (ngày 25 tháng 10 năm 2016). “http://phunuvietnam.vn/kho-bau/cuoc-doi-cach-mang-cua-chu-tich-hoi-lhpnvn-nguyen-thi-dinh-post18069.html”. Phụ nữ Việt Nam. [Cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hội LHPNVN Nguyễn Thị Định Bản gốc] Kiểm tra giao thức
|url=
(trợ giúp) lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. - ^ “Bí danh và những điều chưa biết về nữ tướng Nguyễn Thị Định”. phiên bản tại www.bentre.gov.vn 15:00(GMT+7) ngày 04/06/2010
- ^ “Đôi nét về nữ tướng Nguyễn Thị Định (1920-1992)”. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
- ^ Khóa VI
- ^ khóa VII
- ^ khóa VIII
- ^ “Bến Tre: khánh thành tượng đồng nữ tướng Nguyễn Thị Định - Tuổi Trẻ Online”. Tuổi Trẻ Online. 9 tháng 4 năm 2007. Truy cập 26 tháng 1 năm 2016.
(Nguồn: Wikipedia)