Nguyễn Chí Thanh
Daituong Nguyen Chi Thanh.jpg
Tiểu sử
Biệt danh Sáu Vi, Trường Sơn
Quốc tịch Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Sinh 1 tháng 1, 1914
Quảng Điền, Thừa Thiên, Liên bang Đông Dương
Mất 6 tháng 7, 1967 (53 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1950 - 1967
Cấp bậc Vietnam People's Army General.jpg Đại tướng
Chỉ huy Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
Khen thưởng Huân chương Sao vàng (truy tặng)
Huân chương Hồ Chí Minh,
Huân chương Quân công hạng Nhất
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
...
Công việc khác Ủy viên Hội đồng Quốc phòng
Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương
Bí thư Trung ương Cục miền Nam
Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914–1967) là một tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực chính trị khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "vị tướng phong trào".1 2 Ông cũng là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh".2 3

Thân thế và sự nghiệp cách mạng

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Đại hội Đảng bộ Quân đội năm 1960

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên thật là Nguyễn Vịnh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1914, quê làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông là con trai của Nguyễn Hán và Trần Thị Thiển, con thứ sáu trong gia đình có 11 người con (tính cả anh em cùng cha khác mẹ)4 . Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.

Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.

Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) mới ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (8-1945). Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ5 có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.

Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV.

Cuối năm 1950, bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), được cử vào Bộ Chính trị.

Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng6 .

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Nguyễn Chí Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Năm 1961, được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong Chiến tranh Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp miền Bắc.

Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.

Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.2 3

Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam.

Gia đình

  • Vợ: Nguyễn Thị Cúc, Thiếu tá quân đội, làm việc ở bệnh viện 108. Bà mất năm 1979 tại Hà Nội.4
  • Con trai đầu lòng của họ tên là Trường Sơn (đã mất năm 1947).
  • Người con thứ hai là Nguyễn Thị Thanh Hà, cựu Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam.7 .
  • Hai người con gái tiếp theo là Nguyễn Thị Kim Sơn và Nguyễn Thị Thành.
  • Con trai út là Nguyễn Chí Vịnh, hiện là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam4 8 9 10 .

Chú thích

  1. ^ Lời giới thiệu cuốn sách Vị Tướng Khởi nguồn gió Đại Phong
  2. ^ a ă â Người "nổ súng" chống chủ nghĩa cá nhân
  3. ^ a ă Vén màn bí ẩn ngày 10-10 lịch sử trên địa đạo Tam giác sắt
  4. ^ a ă â Nguyễn, Văn Đăng (2014), “Quê hương và gia thế của vị "đại tướng nhân dân"”, Hội thảo khoa học Đồng chí Nguyễn Chí Thanh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế: 568–579 
  5. ^ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như tôi biết, Đại tướng Lê Đức Anh, Tiền phong]
  6. ^ “Sắc lệnh của Chủ tịch Phủ số 036/SL ngày 31 tháng 8 năm 1959”. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2014. 
  7. ^ Huyền Thương (2010-17-05). “88 học sinh Quảng Bình nhận giải thưởng Ong Vàng”. Báo Khoa học Đời Sống Online. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.  Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  8. ^ Nguyệt Tú - Nguyệt Tĩnh (4 tháng 2 năm 2006). “Chuyện tình yêu của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Báo Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010. 
  9. ^ Nguyễn Thanh Hà (6 tháng 7 năm 2007). “Kỷ niệm về cha tôi”. Báo Thanh niên. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010. 
  10. ^ “Tướng Vịnh: Tôi tự hào với quân hàm "binh bét"”. Báo Tuổi trẻ online. 20 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2014. 

(Nguồn: Wikipedia)