Hôn Đức Công
昏德公
Vua Việt Nam (chi tiết...)
Hoàng đế Đại Việt
Trị vì 18 tháng 7 năm 1369 - 1 tháng 12 năm 1370
(1 năm, 136 ngày)
Tiền nhiệm Trần Dụ Tông
Kế nhiệm Trần Nghệ Tông
Thông tin chung
Thê thiếp Trần thị
Thụy hiệu Trần Nhật Lễ (陳日煃)
Niên hiệu Đại Định (大定)
Thụy hiệu Hôn Đức công (昏德公)
Triều đại Nhà Trần
Thân phụ Trần Nguyên Dục
Thân mẫu Vương Mẫu
Sinh ?
Mất 1 tháng 12, năm 1370
phường Giang Khẩu, Thăng Long
An táng núi Đại Mông
Tôn giáo Phật giáo

Dương Nhật Lễ (chữ Hán: 楊日禮; ? - 1 tháng 12, 1370), tên khác Trần Nhật Kiên (陳日熞), còn gọi Hôn Đức công (昏德公), là một vị hoàng đế nhà Trần, là người kế vị Trần Dụ Tông. Ông ở ngôi từ ngày 15 tháng 6 năm Kỷ Dậu (tức 18 tháng 7 năm 1369) đến ngày 13 tháng 11 năm Canh Tuất (tức 1 tháng 12 năm 1370).

Do chỉ đặt một niên hiệu Đại Định, nên đương thời ông được gọi Đại Định Đế (大定帝). Ông ở ngôi hơn 1 năm thì bị Cung Định vương Trần Phủ truất ngôi.

Thân thế

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, ông vốn là con của kép hát Dương Khương (楊姜). Mẹ ông là vợ Dương Khương, là một người múa hay lại có nhan sắc, do hay diễn Tây Vương Mẫu trong vở Vương Mẫu hiến bàn đào, bà được gọi thông dụng là Vương mẫu (王母).

Khi ấy, Vương Mẫu đã có mang ông nhưng đã bị Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (陳元昱), anh cùng mẹ của Trần Dụ Tông lấy làm vợ. Khi ông sinh ra, Cung Túc vương Dục nhận làm con mình. Không rõ Dương Nhật Lễ sinh năm nào.

Hoàng đế đoản mệnh

Dẹp đảo chính lần đầu

Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu (tức 29 tháng 6 năm 1369), Trần Dụ Tông băng hà. Trước khi mất, ông đã ban chiếu truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ1 . Hiến Từ Thái hậu đồng ý di chiếu cho đón ông lên ngôi, đặt niên hiệu Đại Định (大定). Truy tặng Cung Túc vương là Hoàng thái bá (皇太伯).

Cùng lúc này, sứ đoàn nhà Minh sang sắc phong cho Dụ Tông tới Việt Nam. Nhật Lễ (tên ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Kiên) xin được thụ phong nhưng sứ nhà Minh là Trương Dĩ Ninh (張以寧) không đồng ý. Nhật Lễ phải cử sứ là Đỗ Thuấn Khâm (杜舜欽) sang nhà Minh báo tang và cầu phong2 .

Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận, Đại Định Đế lên ngôi nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều, giữ chức Lệnh thư gia, có ý đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Hiến Từ Thái hậu, mẹ Dụ Tông tỏ ý hối hận việc lập Nhật Lễ. Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết vào ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu (tức 12 tháng 1 năm 1370)1 .

Đêm ngày 20 tháng 9 năm Canh Tuất (tức 9 tháng 10 năm 1370), cha con quan Thái tể Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa, chị gái Dụ Tông3 đem người tôn thất vào thành định giết Đại Định.

Đại Định Đế trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Đại Định Đế vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và giết hết1 .

Bị phế truất

Anh khác mẹ của Trần Dụ Tông là Cung Định vương Trần Phủ, vì có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại4 , phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp ông đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.

Khi ấy, Đại Định Đế Dương Nhật Lễ chuyên dùng thiếu úy Trần Ngô Lang (陳吾郎) mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.

Ngày 13 tháng 11 năm Canh Tuất (tức 1 tháng 12 năm 1370), Trần Phủ đến phủ Kiến Hưng, truất Nhật Lễ làm Hôn Đức công (昏德公). Ngày 15, Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông. Ngày 21 tháng ấy, Trần Phủ cùng Trần Kính và Thiên Ninh công chúa dẫn quân về kinh, sai giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu.

Dương Nhật Lễ tới lúc đó mới biết mình bị Trần Ngô Lang phản bội. Trong khi bị giam giữ, ông lừa gọi Trần Ngô Lang đến gần rồi bóp cổ giết chết Trần Ngô Lang. Trần Nghệ Tông bèn lập tức hạ lệnh giết chết Dương Nhật Lễ và con ông là Liễu, rồi sai đem chôn ở núi Đại Mông1 .

Nguyên nhân

Nhật Lễ ở ngôi được hơn 1 năm, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Nhà Trần lúc đó đã suy yếu, các tôn thất bạc nhược. Nhiều việc thất đức của Nhật Lễ lẽ ra chưa dẫn đến việc bị phế truất. Tư tưởng phong kiến không chấp nhận người dị tộc làm vua trong triều, bởi vậy sai lầm lớn nhất của Nhật Lễ là định đổi sang họ Dương khiến tôn thất nhà Trần nắm quyền bính khắp trong nước xúm lại tìm cách lật đổ. Tính từ khi Nhật Lễ lên ngôi cho tới khi cuộc đảo chính đầu tiên xảy ra tới 1 năm nhưng không có ai chống đối vì khi đó Nhật Lễ vẫn giữ họ Trần.

Tần Thủy Hoàng trước đây cũng phải đối mặt với tiếng tăm về thân thế và cũng có những việc làm thô bạo, thất đức nhưng đã khôn khéo suốt đời không đổi sang họ Lã5 , giết luôn Lã Bất Vi (người bị dị nghị là cha mình) và tìm cách đàn áp thẳng tay những ai có ý định khơi chuyện này để chống đối. Bởi thế Tần Thủy Hoàng giữ được ngôi vị trọn vẹn.

Khách quan nhìn nhận, Nhật Lễ không có tài năng và tư cách, mắc hàng loạt sai lầm nên việc nhanh chóng bị lật đổ là tất yếu6 . Tác giả Trần Xuân Sinh trong sách Thuyết Trần lại cho rằng Trần Nhật Lễ thực ra chỉ là "đứa con hư của dòng họ nhà Trần" nên bị truất đi7 .

Xem thêm

Tham khảo

  • Đại Việt sử ký toàn thư
  • Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng

Chú thích

  1. ^ a ă â b Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 7
  2. ^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/302, accessed July 29, 2016.
  3. ^ Thái tể Trần Nguyên Trác là con trai thứ của vua Trần Minh Tông, còn Thiên Ninh công chúa cũng là con gái Minh Tông, do bà Hiến Từ hoàng hậu sinh ra
  4. ^ Một chi lưu của sông Mã, tỉnh Thanh Hóa
  5. ^ Của Lã Bất Vi
  6. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 359
  7. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 360

(Nguồn: Wikipedia)