Quảng Trị | ||||
---|---|---|---|---|
Tỉnh | ||||
Thành cổ Quảng Trị ngày nay | ||||
Biệt danh | Đất Lửa | |||
Địa lý | ||||
Tọa độ: 16°49′51″B 107°04′02″Đ / 16,830832°B 107,067261°ĐTọa độ: 16°49′51″B 107°04′02″Đ / 16,830832°B 107,067261°Đ | ||||
Diện tích | 4.739,8 km² | |||
Dân số (2013) | ||||
Tổng cộng | 612.500 người1 | |||
Mật độ | 129 người/km² | |||
Dân tộc | Kinh, Bru - Vân Kiều, Hoa, Tà-ôi | |||
| ||||
Hành chính | ||||
Quốc gia | Việt Nam | |||
Vùng | Bắc Trung Bộ | |||
Tỉnh lỵ | Thành phố Đông Hà | |||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Đức Chính | |||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Văn Hùng | |||
Bí thư Tỉnh ủy | Nguyễn Văn Hùng | |||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 1 thị xã, và 8 huyện | |||
Mã hành chính | VN-25 | |||
Mã bưu chính | 52xxxx | |||
Mã điện thoại | 233 | |||
Biển số xe | 74 | |||
Website | http://www.quangtri.gov.vn/ |
Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là tỉnh có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Bắc - Nam Việt Nam, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)
Lịch sử
Trong cổ sử
Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị.
Thời Lý
Tuy mãi đến thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập, nhưng các chính quyền của nhà nước Đại Việt nhanh chóng phát triển về mọi mặt và luôn tìm cách phát triển lãnh thổ để giành lấy không gian sinh tồn trước sự uy hiếp của Trung Quốc ở phía Bắc và Chăm Pa (hậu thân của Lâm Ấp) ở phía Nam. Sự phát triển nhanh chóng của Đại Việt là mối lo ngại cho Chăm Pa cũng như tham vọng của nhà Tống. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm mưu của nhà Tống câu kết với Chăm Pa đánh phá Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long.
Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Đa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay.
Thời Trần
Một trong những sự kiện lịch sử đáng nhớ của Quảng Trị xảy ra vào thời nhà Trần. Năm 1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.
Thời kỳ Nam tiến
Từ đó cho đến khi người Việt hoàn thành công cuộc Nam tiến, dù có vài lần Chăm Pa chiếm lại được quyền kiểm soát, nhưng chung quy người Việt vẫn làm chủ được vùng này. Đặc biệt từ sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa, nhằm làm tăng nhanh dân số cũng như tiềm lực kinh tế để làm cơ sở tranh hùng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Thời nhà Nguyễn
Trong suốt gần 300 năm, vùng đất Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu dinh thuộc vào trấn Thuận Hóa. Mãi đến sau khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đã đặt lại Cựu dinh thành dinh Quảng Trị, bao gồm các huyện Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ. Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh sư Huế. Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ. Đến năm 1827, dinh Quảng Trị nâng lên thành trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị hợp nhất với phủ Thừa Thiên thành đạo Quảng Trị. Tới năm 1876, tỉnh Quảng Trị được tái lập.
Thời Pháp thuộc
Sau khi nắm được quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 3 tháng 5 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Ngày 23 tháng 1 năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rousseau ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền Công sứ Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị. Đến năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Paul Beau ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị và đặt làm tỉnh lỵ.
Việt Nam Cộng hòa
Dân số tỉnh Quảng Trị 19672 | |
---|---|
Quận | Dân số |
Cam Lộ | 36.434 |
Gio Linh | 36.656 |
Hải Lăng | 60.187 |
Hướng Hóa | 8536 |
Mai Lĩnh | 43.178 |
Triệu Phong | 82.048 |
Trung Lương | 13.647 |
Tổng số' | 280.686 |
Sau Hiệp định Genève, 1954, sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời, tỉnh Quảng Trị tạm thời chia làm hai vùng: Vùng bờ nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, gồm các huyện: Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, xã Vĩnh Liêm và một phần của xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh), thị xã Quảng Trị, do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý; hơn 3/4 địa bàn và dân cư của huyện Vĩnh Linh ở phía Bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, được thành lập đặc khu. Đặc khu Vĩnh Linh tương đương đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung ương.
Sau giải phóng
Bình Trị Thiên
Sau khi Sài Gòn thất thủ (30-4-1975), tỉnh Quảng Trị và đặc khu Vĩnh Linh được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản. Từ tháng 3 năm 1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quảng Trị cùng hai tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên và đặc khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh mới là Bình Trị Thiên. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 3 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ thành huyện Bến Hải; hợp nhất 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng thành huyện Triệu Hải.
Tái lập tỉnh
Tháng 7 năm 1989, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khóa VIII, kỳ họp thứ 5) quyết định chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Ngày 1 tháng 7 năm 1989, Quảng Trị trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm thị xã Đông Hà (tỉnh lị) và 3 huyện: Bến Hải, Hướng Hóa, Triệu Hải.
Từ năm 1990, có sự thay đổi về địa giới và tên gọi một số huyện, thị xã như sau: Huyện Bến Hải được tách ra thành lập 2 huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh; huyện Triệu Hải tách ra thành lập 2 huyện: Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Ngày 19 tháng 10 năm 1991, thị xã Đông Hà tách ra thành lập huyện Cam Lộ và thị xã Đông Hà (tỉnh lỵ Quảng Trị).3
Ngày 17 tháng 12 năm 1996, huyện Đa Krông được thành lập trên cơ sở tách 10 xã thuộc huyện Hướng Hóa và 3 xã thuộc huyện Triệu Phong.4 Ngày 1 tháng 10 năm 2004, thành lập huyện đảo Cồn Cỏ.5
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, chuyển thị xã Đông Hà thành thành phố Đông Hà.6 Từ năm 2009, toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã (trong đó có 7 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố), có 136 xã, phường và thị trấn.
Vị trí địa lý
Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía Tây giáp các tỉnh Savannakhet và Saravane của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía Đông giáp biển Đông. Tỉnh lỵ của Quảng Trị là thành phố Đông Hà nằm cách thủ đô Hà Nội 593 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.120 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A.
Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền Quảng Trị ở vào vị trí:
- Cực Bắc là 17°10′ vĩ Bắc, thuộc địa phận thôn Mạch Nước, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh.
- Cực Nam là 16°18′ vĩ Bắc thuộc bản A Ngo, xã A Ngo, huyện Đa Krông. Ngập úng vào mùa mưa lũ.
- Cực Đông là 107°23′58″ kinh Đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê, Hải Lăng.
- Cực Tây là 106°28′55″ kinh Đông, thuộc địa phận đồn biên phòng Cù Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa.
Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển Đông.
Phía Bắc của tỉnh Quảng Trị giáp huyện Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình), phía Nam giáp hai huyện A Lưới, Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên-Huế), phía Tây giáp tỉnh Savanakhet (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206 km, được phân chia bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 75 km và được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý 17°9′36″ vĩ Bắc và 107°20′ kinh Đông, đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25 km, diện tích khoảng 4 km². Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km).
Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác biển Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thế giới qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi với 7 hệ thống sông chính là sông Thạch Hãn, sông Bến Hải, sông Hiếu, sông Ô Lâu, sông Bến Đá, sông Xê Pôn và sông Sê Păng Hiêng. Sông ở các huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Nhìn đại thể, địa hình núi, đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và trùng với phương của đường bờ biển.
Sự trùng hợp này được thấy rõ trên dường phân thủy giữa Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều nằm ở giữa đường biên giới Việt - Lào nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các sông lớn như Sê Păng Hiêng, Sê Pôn... đều bắt nguồn từ Việt Nam chảy qua Lào.Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng dãy núi, từng dải đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lũng sông lớn như Cam Lộ, Thạch Hãn, Bến Hải...
Tính phân bậc của địa hình từ tây sang đông thể hiện khá rõ ràng. Nếu ở phía tây của đường phân thủy địa hình nghiêng khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi trung bình xuống đồng bằng. Các bậc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới sông suối dày đặc với trắc diện dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía Tây thì lộ đá gốc, phía đông là địa hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bởi phù sa ở giữa lại thấp và dễ dàng bị ngập úng.
Khí hậu
Quảng Trị nằm ở phía Nam của Bắc Trung Bộ, trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa hai miền khí hậu. Miền khí hậu phía bắc có mùa đông lạnh và phía nam nóng ẩm quanh năm. Ở vùng này khí hậu khắc nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí hậu biến động mạnh, thời tiết diễn biến thất thường, vì vậy trong sản xuất và đời sống người dân gặp không ít khó khăn.
Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến Bắc bán cầu, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua thiên đỉnh (tháng 5 và tháng 8), nền bức xạ cao (cực đại vào tháng 5, cực tiểu vào tháng 12). Tổng lượng cán cân bức xạ cả năm ở Quảng Trị dao động trong khoảng 70-80 Kcalo/cm² năm), những tháng mùa hè gấp 2-3 lần những tháng mùa đông. Tổng số giờ nắng trung bình năm ở Quảng Trị dao động từ 1.700-1.800 giờ. Số giờ nắng nhất vào tháng 7 (240-250 giờ).
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20-25 °C, tháng 7 cao nhất còn tháng 1 thấp nhất. Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng bằng trên 40 °C và ở vùng núi thấp 34-35 °C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể xuống tới 8-10 °C ở vùng đồng bằng và 3-5 °C ở vùng núi cao. Gió phơn tây nam khô nóng, thường gọi là "gió Lào", thường xuất hiện vào tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày khô nóng.
Mùa mưa diễn ra từ tháng 9 đến tháng 1, với lượng mưa trong thời gian này chiếm khoảng 75-85% tổng lượng mưa cả năm. Các tháng mưa kéo dài, lớn là tháng 9-11 (khoảng 600 mm). Tháng ít mưa nhất là tháng 2-7 (thấp nhất là 40mm/tháng). Tổng lượng mưa cả năm dao động khoảng 2.000–2.700 mm, số ngày mưa 130-180 ngày. Độ ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm 85-90%, còn tháng khô thường dưới 50%, có khi xuống tới 30%. Thành phố Đông Hà vào mùa hè bị khô cạn hơn cả, vùng Khe Sanh (Hướng Hóa) có khí hậu quanh năm ẩm.
Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó tháng 9-10 nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ bộ vào khu vực Bình Trị Thiên, bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp. Ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to dài ngày (2-5 ngày) gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp nhiệt đới ngây ra chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10. Lượng mưa do một cơn bão gây ra khoảng 300–400 mm, có khi lên tới 1.000 mm.
Dân số
Lịch sử phát triển dân số | ||||||||||||||||
Năm | Dân số | |||||||||||||||
1995 | 534.900 | |||||||||||||||
1996 | 544.800 | |||||||||||||||
1997 | 555.000 | |||||||||||||||
1998 | 565.400 | |||||||||||||||
1999 | 574.900 | |||||||||||||||
2000 | 577.600 | |||||||||||||||
2001 | 580.800 | |||||||||||||||
2002 | 583.900 | |||||||||||||||
2003 | 586.300 | |||||||||||||||
2004 | 588.600 | |||||||||||||||
2005 | 590.300 | |||||||||||||||
2006 | 591.900 | |||||||||||||||
2007 | 594.100 | |||||||||||||||
2008 | 596.700 | |||||||||||||||
2009 | 598.600 | |||||||||||||||
2010 | 601.700 | |||||||||||||||
2011 | 604.700 | |||||||||||||||
Nguồn:7 |
Theo kết quả điều tra ngày 01/04/2009 dân số tỉnh Quảng Trị là 597.985 người. 20% dân số sống ở thành thị và 80% dân số sống ở nông thôn.
Hành chính
Quảng Trị hiện bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện:
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Trị | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Quảng Trị có 141 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 117 xã, 13 phường và 11 thị trấn Khi tái lập tỉnh Quảng Trị theo Nghị quyết ngày 30 tháng 6 năm 1989 của Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5, tỉnh có 1 thị xã là Đông Hà và 3 huyện là Bến Hải, Hướng Hóa và Triệu Hải. Theo Quyết định số 134-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Việt Nam ngày 16 tháng 9 năm 1989, thị xã Quảng Trị được thành lập trên cơ sở thị trấn Quảng Trị (thuộc huyện Triệu Hải).
Theo Quyết định số 91-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Việt Nam ngày 23 tháng 3 năm 1990, huyện Bến Hải chia thành 2 huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, huyện Triệu Hải chia thành 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Ngày 19 tháng 8 năm 1991, huyện Cam Lộ được tái lập trên cơ sở tách 8 xã phía tây thị xã Đông Hà. Ngày 17 tháng 12 năm 1996, huyện Đa Krông được thành lập từ một phần các huyện Triệu Phong và Hướng Hóa. Thị xã Đông Hà được nâng lên thành thành phố theo nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11 tháng 8 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Kinh tế
Giao thông
Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo sang Lào. Dự án sân bay Quảng Trị ở Gio Linh, cách Đông Hà 7 km về phía bắc đang được chuẩn bị thủ tục triển khai đầu tư. Cảng biển Mỹ Thủy, Đại lộ Đông Tây bảy làn xe nối từ cảng Mỹ Thủy qua cửa khẩu Lao Bảo, có tổng vốn đầu tư khoảng 150 triệu USD.
Biển số xe cơ giới trong tỉnh:
- Xe cơ giới trong tỉnh: 74-K XXX.XX
- Xe môto trên 175cc: 74-A1 XXX.XX
- Thành phố Đông Hà: 74-C1 XXX.XX
- Thị xã Quảng Trị: 74-C1 XXX.XX
- Huyện Gio Linh: 74-B* XXX.XX k2
- Huyện Vĩnh Linh: 74-L* XXX.XX
- Huyện Cam Lộ: 74-G* XXX.XX
- Huyện Hải Lăng: 74-F* XXX.XX
- Huyện Đa Krông: 74-C1 XXX.XX
- Huyện Hướng Hóa: 74-H* XXX.XX
- Huyện Triệu Phong: 74-D* XXX.XX
- Huyện Đảo Cồn Cỏ: 74-P* XXX.XX
Du lịch
Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử và có nhiều tiềm năng du lịch:
- Cầu treo Đakrông
- Đường mòn Hồ Chí Minh.
- Thành cổ Quảng Trị (là một nơi gắn liền với chiến dịch mùa hè 1972).
- Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
- Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9
- Địa đạo Vịnh Mốc
- Căn cứ Khe Sanh
- Căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu
- Hàng rào điện tử McNamara
- Bãi tắm Cửa Tùng (được các sĩ quan Hải quân Pháp mệnh danh là "Nữ hoàng của các bãi tắm" ở Đông Dương.)
- Biển Mỹ Thủy
- Biển Cửa Việt
Người Quảng Trị
Lĩnh vực chính trị:
- Trần Đình Túc - Quan đại thần nhà Nguyễn (thời Tự Đức), từng giữ các chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình), Hiệp biện Đại học sĩ. Trần Đình Túc là một trong những đại thần chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp, khi Pháp xâm lược Việt Nam.
- Nguyễn Văn Tường - Quan Đại thần phụ chính Nhà Nguyễn, một trong những nhân vật trọng yếu của phong trào Cần Vương
- Lê Duẩn - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đoàn Khuê - Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
- Trần Hữu Dực - Phó thủ tướng chính phủ
- Nguyễn Khánh Toàn (sinh năm 1945) là một tướng lĩnh Công an Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an Việt Nam, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Đại biểu Quốc hội khóa XI.
- Trần Trọng Tân - Nguyên trưởng Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Phó bí thư thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh
- Hoàng Xuân Lãm - Trung tướng Quân lực VNCH, Tư lệnh Vùng 1 chiến thuật
Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật:
- Duy Khánh - Ca sĩ, nhạc sĩ
- Quang Linh - ca sĩ
- Bảo Yến - ca sĩ
- Như Quỳnh - Ca sĩ
- Vân Khánh - Ca sĩ
- Tùng Dương - Ca sĩ
- Hoàng Thi Thơ - Nhạc sĩ
- Trần Hoàn - Nhạc sĩ
- Trần Quang Lộc - Nhạc sĩ
- Cáp Anh Tài - Ca sĩ
- Chế Lan Viên - Nhà thơ
- Hoàng Phủ Ngọc Tường - Nhà văn
- Đinh Hương - Ca sĩ
Doanh nhân:
- Hoàng Kiều - tỷ phú, người Việt giàu nhất thế giới.
Vận động viên:
- Hoàng Xuân Vinh - Vận động viên bắn súng, Huy chương vàng Olympic brazil 2016
Giải trí truyền hình
- Văn Viết Đức - Vô địch Olympia 15
- Phan Đăng Nhật Minh - Vô địch Olympia 17
Hình ảnh
Một góc thành phố Đông Hà, Quảng Trị.
Một góc thành phố Đông Hà.
Di tích Đôi bờ Hiền Lương.
Đài tưởng niệm trong thành cổ Quảng Trị.
Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo ở Hướng Hóa, Quảng Trị.
Chú thích
- ^ “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
- ^ Việt Nam Cộng hòa bản đồ hành chánh. Đà Lạt: Phân cục Địa dư Quốc gia, 1967.
- ^ Quyết định 328-HĐBT năm 1991 điều chỉnh địa giới thị xã Đông Hà và thành lập lại huyện Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị
- ^ Nghị định 83-CP năm 1996 về việc thành lập huyện ĐaKrông thuộc tỉnh Quảng Trị
- ^ Nghị định 174/2004/NĐ-CP về việc thành lập huyện đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị
- ^ Nghị quyết số 33/NQ-CP về việc thành lập thành phố Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị
- ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
Tham khảo
- Murfin, Gary D., A. Terry Rambo, Le-Thi-Que, Why They Fled: Refugee Movement during the Spring 1975 Communist Offensive in South Vietnam Asian Survey, Vol. 16, No. 9. (Sep., 1976): 855–863
- Pearson, Lieutenant General Willard. The War in the Northern Provinces: 1966–1968, Washington D.C.: U.S. Government Printing Office, (1975).
- Schulzinger, Robert D. A Time for War: The United States and Vietnam, 1941–1975 (1997).
(Nguồn: Wikipedia)