Khúc Tiên Chủ
Vua Việt Nam
Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ (Tiết độ sứ Giao Chỉ thời kỳ Tự chủ)
trị vì 905 - 907
Tiền nhiệm Bắc thuộc lần 3
Kế nhiệm Khúc Trung Chủ
Thông tin chung
Hậu duệ
tên thật Khúc Thừa Dụ
Miếu hiệu Tiên Chủ
Mất 23 tháng 7 năm 907
Thành Đại La, Hà Nội

Khúc Thừa Dụ (chữ Hán: 曲承裕; trị vì: 905 - 907) được suy tôn là Khúc Tiên Chủ (曲先主), là người đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc Việt sau gần 1000 năm bị các triều đại Trung Hoa đô hộ.

Nguồn gốc

Khúc Thừa Dụ quê quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang, Ninh Giang cũ ở Hải Dương), mấy đời là hào tộc mạnh, tính khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. 1

Sự nghiệp

Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường- nước Tàu đô hộ, năm Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.2

Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.3

Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...".

Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia Lê Tung viết trong sách Việt giám thông khảo tổng luận gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên chúa.4

Tham khảo

  • Đại Việt Sử ký Toàn thư Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1.
  • Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
  • Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968
  • Việt sử lược
  • Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
  • An Nam chí lược, Viện Đại học huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961, bản điện tử.

Xem thêm

  • Tự chủ
  • Họ Khúc
  • Khúc Hạo
  • Bắc thuộc
  • Tiết độ sứ

Chú thích

  1. ^ Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71
  2. ^ Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71
  3. ^ Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71
  4. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 121
Tiền nhiệm:
Không có
Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ
905 - 907
Kế nhiệm:
Khúc Hạo

(Nguồn: Wikipedia)